Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA145 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2760 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 20-06-2012 02:28:06 PM
Mã Tài liệu
DA145
Tổng điểm Đánh giá
5 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
PHẦN I:
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM.                                        
Trước hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất, đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu qủa các hoạt động kinh tế, nó bao gồm những nguồn vật tư và tài sản trong các doanh nghiệp, nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân. Vì vậy, chính sách tạo vốn cơ bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của người có vốn và do đó, việc sử dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết và chủ yếu là tạo ra môi trường kinh tế và tiền đề pháp lý đẻe biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản sinh lợi và tăng trưởng trong quá trình tái sản xuất xã hôị. Các nguồn chủ yếu bao gồm :vốn đầu tư  kinh tế của nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh nghiệp và tổ choc tài chính quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay vốn là yếu tố vật chất quan trọng nhất cho tăng trưởng. Để tao ra tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7-8% thì cần tích luỹ một lượng vốn từ 20- 25% GDP. Nếu trong những năm tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế là hai con số trong vài thập niên tới thì cần thì tỷ lệ tích luỹ vốn phải lên tới trên 30% GDP. Đây là một nhu cầu lớn cần  phải giải quyết để khai thác nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước.
Vốn ngân sách nhà nước một thời gian giảm xuống nay đã bắt đầu tăng lên. năm 1990 là 20% thì tới năm 1994 đã tăng lên là 44% ngân sách. Để đạt được kết quả đó thì nguyên nhân cơ bản là chính sách thuế đã được cải cách một cách toàn diện và thu được nhiều kết quả cho ngân sách. Năm1990 thu ngân sách từ thuế phí chiếm 73,69%, năm 1993 phần thu đó là 93,8%. Nếu so với GDP thì các tỷ trọng tương tự là 17,3% và 17,06% vốn huy động từ các nguồn khác cũng có xu hướng tăng do chính sách khuyến khích đầu tư, tư nhân  và tạo dựng được môi trường đầu tư cho mọi thành phần kinh tế phát triển. Điều mà ai cũng có thể đồng ý với nhau là một nền kinh tế kém phát triển có thể cất cánh được nếu không có sự tham gia của các nguồn vốn từ nước ngoài. Vai trò của nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ khai thông những cản ngại, tạo sức bật cho nền kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta nên nỗ lực huy động nguồn vốn từ bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không nên trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong việc huy động vốn để đầu tư  phát triển, chúng ta cần phải khẳng định vai trò của nguồn vốn trong nước đóng vai trò quan trọng hay quyết định. Mặc dù nguồn vốn này còn thấp so với vốn dài hạn ( cho thời kỳ 1996- 2000) vẫn còn khó huy động trong hiện tại. Theo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước , cùng với kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy:  Nguồn vốn trong nước vẫn là nguồn vốn có tính chất quyết định, người dân trong nước vẫn chưa dám bỏ vốn ra đầu tư thì người nước ngoài  cũng chưa mạnh dạn bỏ vốn dầu tư vào Việt nam.
Vấn đề đặt ra là không phải tìm mọi cách để huy động cho được các nguồn vốn, mà phải coi trọng việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ấy cho đầu tư phát triển sao cho có hiệu quả để nguồn vốn ấy sinh sôi nảy nở và đạt được chiến lược hiệu quả kinh tế - xã hội đề ra.
Đầu tư phát triển phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Phải được tính bền vững trong đầu tư phát triển, tức là tự bản thân nó phải có mầm mống cho tăng trưởng trong tương lai, nhằm sử dụng tài nguyên một cách hợp lý để không ngừng khai thác lợi thế so sánh của tiềm năng đất nước.
- Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển phải có hiệu quả để tái tạo và phát triển các nguồn vốn, tạo tiền đề cho việc huy động vốn ở giai đoạn tiếp theo.
- Nền kinh tế Việt nam có xuất phát điểm thấp, thu nhập bình quân đầu người khoảng 300 đô la/ năm, lại nằm trong khu vực ASEAN có tốc độ tăng trưởng cao, nên Việt nam phảt duy trì tốc độ tăng trưởng cao để đuổi kịp các nước trong khu vực trong vài thập niên, mặc dù chịu tác đông nhất định của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực .
Vì vậy Chính phủ phải có kế hoạch,huy động vốn phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân.
 trong việc duy trì và phát triển nền kinh tế, nếu không có vốn thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không thể thực hiện được.
.  Vốn đầu tư:
- Khái niệm:  Vốn đầu tư là những chi phí để tái sản xuất tài sản cố định bao gồm các chi phí để thay thế những tài sản cố định bị thải loại  để tăng mới các tài sản cố định và để gia tăng các tài sản cố định tồn kho.
- Các hình thức đầu tư:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
. Cơ cấu vốn đầu tư:
a.          Nguồn vốn trong nước bao gồm các loại vốn chủ yếu sau:
-              Vốn huy động từ ngân sách nhà nước.
-              Vốn huy động trong dân cư.
-              Vốn huy động từ tiết kiệm của các doanh nghiệp.
b.          Nguồn vốn ngoài nước bao gồm:
-              Vốn đầu tư trực tiếp
-              Vốn đầu tư gián tiếp
-              Vốn hỗ trợ và phát triển chính thức.
II/ CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC.
1/ Vốn huy động từ ngân sách nhà nước
Là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch. Chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ sung từ bên ngoài, chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ của tư nhân nước ngoài. Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần có những sửa đổi trong chính sách đầu tư.
Nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước:là các nguồn tàI chính có khả nămg tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại.
-Nguồn thu được hình thành  và thực hiện trong khâu sản xuất.
-Nguồn thu được thực hiện trong khâu lưu thông-phân phối.
-Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ.
Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản:
-Thuế ,phí và lệ phí.
-Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
-Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
-Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên qua các năm, bình quân từ 13,1% GDP (thời kỳ1986- 1990) lên 20,5% ( thời kỳ 1991- 1995) ngân sách nhà nước từ chỗ thu không đủ chi đến nay đã có một phần tích luỹ dành cho đầu tư phát triển từ 2,3% GDP năm 1991 tăng lên 6,1% GDP vào năm 1996 ( nếu cả do khấu hao cơ bản).
Nguyên nhân chủ yếu của nó là:
- Ngân sách nhà nước đã điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm tạo ra các tiền đề thu hút vốn đầu tư.
- Chi của ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội.
- Ngân sách nhà nước không còn bao cấp cho các xí nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá và tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp- lâm nghiệp.
Mục tiêu của huy động vốn ngân sách nhà nước phải dành khoảng từ 20- 25% tổng số chi ngân sách cho đầu tư phát triển hàng năm. Khai thác có hiệu quả tín dụng nhà nước đầu tư phát triển, đồng thời phải đẩy mạnh hình thức vay vốn trong nhân dân, cho đầu tư phát triển kinh tế là quốc sách hàng đầu. Muốn đạt được các hiệu quả trên cần phải thực  các biện pháp  sau:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA145 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)