Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh.
Vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Dưới tác động và yêu cầu của quy luật này, các doanh nghiệp phải vận dụng tối đa, linh hoạt và hợp thức các thủ pháp và nghệ thuật kinh doanh để đạt tới các lợi thế tương đối để tăng trưởng và phát triển cặp thị trường - sản phẩm, khách hàng tiềm năng - thị phần nhằm tối ưu hoá lợi nhuận mong muốn.
Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm doanh nhgiệp do không hoà nhập hoặc xác định không đúng các thủ pháp cạnh tranh nên bị suy thoái, thậm chí phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường, một số doanh nghiệp thích ứng được và vận dụng đồng bộ các thủ pháp cạnh tranh hợp lý thì không ngừng phát triển.
Hiện nay, Việt nam đă tham gia Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEBT) để thành lập khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA) vào năm 2003, đã tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và đang xúc tiến xin gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Những sự kiện trên cũng có nghĩa là trong thời gian tới, doanh nghiệp Việt Nam nói chung không những chỉ cạnh tranh với nhau ở trong nước mà còn phải trực diện cạnh tranh với các doanh nghiệp ở nước ngoài.
Thực tế trong lĩnh vực sản xuất khoá và máy móc thiết bị đã phản ánh đầy đủ và điển hình các yếu tố của môi trường kinh doanh trong cơ chế cạnh tranh.
Công ty khoá Minh khai là một Công ty kinh doanh trong lĩnh vực này, do vậy đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển ngày một vững mạnh.
Vấn đề này được quan tâm nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp các nguyên lý kinh doanh trong tình hình cạnh tranh nhằm nghiên cứu thực trạng hoạt động cũng như tình hình cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm của Công ty khoá Minh Khai.
Bài viết này được chia thành 3 phần chính:
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
PHẦN II: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY KHOÁ MINH KHAI
Thuật ngữ “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đặt được những ưu thế, lợi thế mục tiêu xác định. Trong hình thái cạnh tranh thị trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể cung (nhóm người bán) cũng như chủ thể cầu (nhóm người mua), cả hai nhóm này tiến tới cạnh tranh với nhau vì được liên kết với nhau bằng giá cả thị trường.
Động cơ của bất kỳ một cuộc cạnh tranh nào cũng là nhằm đạt được ưu thế, lợi ích hơn về lợi nhuận, về thị trường mục tiêu Marketing, về nguồn cung ứng, về kỹ thuật, về khách hàng tiềm năng…Chính vì động cơ này các chủ thể kinh doanh căn cứ vào vị trí, thế lực của mình để lựa chọn phương cách, công cụ cạnh tranh thích hợp.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là cường dộ các yếu tố sản xuất trong tương quan so sánh của doanh nghiệp. Sức cạnh tranh không đồng nhất với quy mô của doanh nghiệp và nó không được đo lường bởi các yếu tố cạnh tranh kinh điển mà phải đặt nó trong mối quan hệ với thị trường cạnh tranh, môi trường cạnh tranh, vì vậy ta có thể có khái niệm tổng quát:
“Sức cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố để xác lập vị thế so sánh tương đối hiọc tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng và phát triển bền vững, ổn định của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với tập các đối thủ cạnh tranh trong cùng một môi trường và thị trường cạnh tranh xác định trong một khoảng thời gian hoặc một thời điểm định gía xác định”
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệpphải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh,phải triệt để không ngừng sáng tạo, tìm tòi.
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời.
- Cạnh tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông qua những lợi thế mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh. Đồng thời cạnh tranh cũng là yếu tố làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
- Cạnh tranh mang đến cho người tiêu dùng ngày càng nhiều hơn chủng loại hàng hoá, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng. Khôngnhững thế, cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng sự thoả mãn hơn nữa về nhu cầu.
- Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
- Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao vào sản xuất, hiện đại hoá nền kinh tế xã hội.
- Cạnh tranh góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh.
Tuy nhiên không phải tất cả các mặt của cạnh tranh đều mang tính tích cực mà bản thân nó cũng phải thừa nhận các mặt tiêu cực như:
+ Bị cuốn hút vào các mục tiêu cạnh tranh mà các doanh nghiệp đã không chú ý đến các vấn đề xung quanh như: xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề xã hội khác.
+ Cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn tới độc quyền.
+ Cường độ cạnh tranh mạnh sẽ làm ngành yếu đi.
Chúng ta có thể phân biệt thành bốn mức độ cạnh tranh căn cứ vào mức độ thay thế của sản phẩm:
* Cạnh tranh nhãn hiệu:
Doanh nghiệp có thể xem những doanh nghiệp khác có bán sản phẩm và dịch vụ tương tự cho cùng một số khách hàng với giá bán tương tự là các đối thủ cạnh tranh của mình.
* Cạnh tranh ngành:
Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn tất cả những doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hay một lớp sản phẩm đều là đối thủ cạnh tranh của mình.
* Cạnh tranh công dụng:
Doanh nghiệp có thể xem một cách rộng hơn nữa là tất cả những doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm thực hiện cùng một dịch vụ là đối tượng cạnh tranh của mình.
Để cụ thể hơn, ta có thể phân biệt thành năm kiểu cơ cấu ngành căn cứ vào số lượng người bán và sản phẩm đồng nhất hay rất khác biệt như sau:
Chúng tôi trên mạng xã hội