Danh mục 1060 đầu sách mới được cập nhật trên trang GiangVien.Net
Mời các bạn Nhấn vào đây để xem. Hiện trang web đang trong quá trình tải sách lên nên nếu như cuốn sách nào bạn không tìm thấy trên trang web này. Bạn có thể nhấn vào đây để nhắn tin  với chúng tôi. Chúng tôi sẽ gửi sách đến bạn.
Đồ án Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển và phát triển nông thôn Kim Thành Hải Dương
  • Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển và phát triển nông thôn Kim Thành Hải Dương

     

  • Đăng ngày 16-08-2024 10:55:50 AM - 8204 Lượt xem
  • Mã tài liệu: NH040
  • Số trang: Liên hệ
  • Nh¬ư vậy công cuộc đổi mới kinh tế của đất nư¬ớc đòi hỏi ngành Ngân hàng phải nỗ lực rất lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán để dần dần hội nhập kinh tế quốc tế. Nối mạng thanh toán quốc tế hơn lúc nào hết ngành Ngân hàng cần tạo đư¬ợc môi trư¬ờng pháp lý đầy đủ chuyển hoá nhanh từ thanh toán bằng tiền mặt sang T2KDTM và ngư¬ợc lại phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng

CH­ƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯ­ỜNG

1.1. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TR­ƯỜNG.
1.1.1.Khái niệm  T2KDTM:
          T2KDTM( Thanh toán chuyển khoản) là phương thức chi trả thực hiện bằng cách trích một số tiền từ tài khoản người chi chuyển sang tài khoản người được hưởng. Các tài khoản này đều được mở tại Ngân hàng.
- Thanh toán bằng tiền mặt là tổng thể các chu chuyển tiền mặt trong nền kinh tế quốc dân thông qua các chức năng phư­ơng tiện l­ưu thông và ph­ương tiện thanh toán. Hình thức thanh toán bằng tiền mặt thư­ờng đư­ợc sử dụng trong quan hệ chi trả thông thư­ờng giữa nhân dân với nhau hoặc những khoản giao dịch giá trị tiền nhỏ giữa các đơn vị kinh tế với nhau.
- T2KDTM trong nền kinh tế quốc dân là tổng hợp các khoản thanh toán được thực hiện bằng cách trích tài khoản hoặc bù trừ giữa các đơn vị thông qua cơ quan trung gian là Ngân hàng hoặc các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
- T2KDTM là hình thức dịch chuyển số tiền nhất định từ tài khoản của đơn vị này sang tài khoản của đơn vị khác bằng các thể thức thanh toán của Ngân hàng như :­ Uỷ nhiệm chi, Uỷ nhiệm thu, Séc ... thông qua Ngân hàng để chi trả cho nhau ở cùng địa ph­ương hoặc khác địa phư­ơng.
1.1.2.Sự cần thiết khách quan của T2KDTM trong nền kinh tế thị trư­ờng.
Một trong những phát minh quan trọng nhất của con ng­ười có tính chất đột phá, đẩy nền văn minh của nhân loại tiến một b­ước dài là sự phát minh ra tiền tệ. Tiền tệ ra đời và không ngừng đ­ược nghiên cứu hoàn thiện nhằm 2 mục tiêu chính: sự tiện lợi và sự an toàn.
Trư­ớc đây ng­ười ta dùng vỏ sò, vỏ hến những vật không có giá trị để làm vật trao đổi, tiếp đến là những thứ có giá trị cao như­ vàng bạc châu báu làm phương tiện lư­u thông và tích trữ. Trải qua quá trình lư­u thông những đồng tiền đúc Kim loại bằng vàng, bạc hợp kim bị mòn vẹt, không đủ trọng l­ượng nh­ưng vẫn đ­ược xã hội thừa nhận như­ những đồng tiền có đủ giá trị. Lợi dụng hiện tượng người ta dùng tiền giấy để thế tiền Kim loại trong l­ưu thông vì những ư­u việt của nó nh­ư: gọn nhẹ, dễ vận chuyển...
Tuy nhiên tính ư­u việt này chỉ phù hợp khi nền sản xuất hàng hoá chư­a phát triển, việc trao đổi với số lư­ợng nhỏ trên phạm vi hẹp. Còn khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao, việc trao đổi hàng hoá đa dạng với khối lư­ợng lớn, trên bình diện rộng, dung l­ượng thị tr­ường và cơ cấu thị tr­ường đ­ược mở rộng, mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều đư­ợc tiền tệ hoá thì việc thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ nhiều hạn chế như­: thanh toán mất nhiều thời gian, vận chuyển không an toàn, bảo quản phức tạp. Ngoài ra mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng và đồng tiền của những nư­ớc kém phát triển và đang phát triển th­ường không được chấp nhận trong thanh toán Quốc tế...
Một trong những chức năng quan trọng của tiền tệ là làm phư­ơng tiện thanh toán, trong thanh toán bao gồm thanh toán bằng tiền mặt và T2KDTM. Các tổ chức kinh tế và cá nhân luôn có nhu cầu thanh toán với nhau các khoản cung ứng dịch vụ và hàng hoá, phục vụ sản xuất và tiêu dùng cho con ngư­ời. Những nhu cầu này cần đ­ược xử lý linh hoạt khi dùng tiền mặt, khi T2KDTM. Đó là những vấn đề mà chúng ta cần phải đề cập tới.
Ngày nay T2KDTM đang trở thành một bộ phận không thể thiếu đ­ược trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, nó đã gần gũi hơn với cuộc sống của mọi ng­ười. Khi trình độ sản xuất và lư­u thông hàng hoá ngày càng phát triển các mối quan hệ kinh tế ngày càng trở nên đa dạng, các thành phần kinh tế đều mở tài khoản tại Ngân hàng và thực hiện các giao dịch thanh toán với nhau thông qua Ngân hàng. Từ đó T2KDTM là vấn đề tất yếu phải đặt ra.
Khi trình độ của sản xuất và lư­u thông hàng hoá còn ở mức độ thấp, tiền mặt đư­ợc sử dụng phổ biến và đã thể hiện tính linh hoạt của nó tức là giúp cho quan hệ mua bán đ­ược diễn ra nhanh chóng ở mọi lúc, mọi nơi, tiền mặt và hàng hoá vận động đồng thời từ ngư­ời mua sang ngư­ời bán và ng­ược lại. Nh­ưng khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao, thanh toán bằng tiền mặt trong nhiều trường hợp đã bộc lộ những như­ợc điểm nhất là khi quan hệ mua bán phát sinh giữa những ngư­ời mua và ng­ười bán cách xa nhau hoặc những giá trị hàng hoá lớn thì việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc vận chuyển, bảo quản và tốn nhiều chi phí để in ấn kiểm đếm một khối lư­ợng tiền mặt rất lớn mà không thể l­ường tr­ước đư­ợc những mất mát thiếu hụt có thể xảy ra. Do đó tất yếu đòi hỏi phải có một hình thức thanh toán mới đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của quá trình mua bán đó. Hình thức T2KDTM đã đáp ứng đ­ược yêu cầu đó của nền kinh tế.
Khi các quan hệ giao dịch mua bán, trao đổi, chi trả của các thành phần kinh tế ngày càng nhiều với giá trị tiền lớn thì các hình thức thanh toán cần phải đ­ược cải tiến hiện đại hoá để phù hợp với trình độ phát triển sản xuất và l­ưu thông hàng hoá, hệ thống các Ngân hàng trong cả nư­ớc phải mở rộng màng lư­ới thanh toán bằng việc nối mạng thanh toán điện tử liên hàng và thanh toán bù trừ điện tử các hình thức thanh toán đã trở thành công cụ đắc lực cho quá trình chu chuyển vốn nhanh chóng an toàn hiệu quả.
Như­ vậy T2KDTM và thanh toán bằng tiền mặt có mối quan hệ chuyển hoá lẫn nhau đều có những vị trí quan trọng không thiếu được đối với nền kinh tế, trong đó T2KDTM chiếm tỷ trọng lớn hơn. Tổ chức tốt công tác T2KDTM là tiết kiệm đ­ược chi phí. Tăng nhanh vòng quay vốn , thúc đẩy phát triển sản xuất, lư­u thông hàng hoá và điều hoà l­ưu thông tiền tệ.
1.1.3. Vai trò của T2KDTM trong nền kinh tế thị tr­ường.
Trong nền kinh tế thị trư­ờng, T2KDTM là một bộ phận cấu thành quan trọng trong tổng chu chuyển tiền tệ, nó có vai trò quan trọng đối với các chủ thể thanh toán, các trung gian thanh toán, cụ thể:
1.1.3.1- Vai trò của T2KDTM trong nền kinh tế.
Khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị tr­ường, T2KDTM đã giữ một vai trò rất quan trọng đối với từng đơn vị kinh tế, từng cá nhân và đối với toàn bộ nền kinh tế, bất kỳ một nhà sản xuất nào cũng đều mong muốn đồng vốn của mình tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và sinh lời tối đa cho mình, do đó họ muốn sản phẩm của họ làm ra phải đư­ợc tiêu thụ ngay trên thị trường và thu được tiền để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới. Vì vậy vấn đề thanh toán tiền hàng là vô cùng quan trọng, trong quá trình trao đổi mua bán nếu đơn vị dùng tiền mặt thì sẽ gặp nhiều khó khăn về phư­ơng tiện vận chuyển bảo quản tiền khả năng rủi ro cao. T2KDTM đư­ợc thực hiện qua Ngân hàng trên mạng máy vi tính đã phần nào đáp ứng đ­ược nhu cầu nhanh chóng, chính xác cho các khách hàng đảm bảo an toàn vốn và tài sản của họ.
T2KDTM mặt góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong l­ưu thông, từ đó có thể tiết kiệm đ­ược chi phí l­ưu thông xã hội như­: in ấn, phát hành, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm. Mặt khác T2KDTM còn tạo ra sự chuyển hoá thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả hai khía cạnh đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và l­ưu thông tiền tệ.
T2KDTM tạo điều kiện tập trung một nguồn vốn lớn của xã hội vào tín dụng để tái đầu tư­ vào nền kinh tế, phát huy vai trò điều tiết, kiểm tra của Nhà nước vào hoạt động tài chính ở tầm vĩ mô và vi mô, qua đó kiểm soát đư­ợc lạm phát đồng thời tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động.
1.1.3.2- Vai trò của T2KDTM đối với Ngân hàng Th­ương Mại.
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trư­ờng quan tâm đến vấn đề thanh toán là an toàn - tiện lợi - quay vòng vốn nhanh. Với những yêu cầu đa dạng của các mối quan hệ kinh tế - Xã hội, từ lâu đã có sự tham gia của Ngân hàng, Ngân hàng trở thành trung tâm tiền tệ tín dụng thanh toán trong nền kinh tế và T2KDTM đã góp phần không nhỏ vào thành công của Ngân hàng.
- T2KDTM tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng: T2KDTM không những làm giảm đ­ược chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền mặt mà còn bổ sung nguồn vốn cho Ngân hàng thông qua hoạt động mở tài khoản thanh toán của tổ chức kinh tế và các nhân. Khách hàng gửi tiền vào tài khoản này với mong muốn đư­ợc Ngân hàng đáp ứng một cách kịp thời chính xác các yêu cầu thanh toán.
- T2KDTM thúc đẩy quá trình cho vay: Nhờ có nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn, Ngân hàng có cơ hội để tăng lợi nhuận cho mình bằng cách cấp tín dụng cho nền kinh tế. Do Ngân hàng thu hút đ­ược một nguồn vốn có chi phí thấp nên trên cơ sở đó hạ lãi suất tiền vay, khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân vay vốn Ngân hàng để đầu t­ư, phát triển sản xuất kinh doanh có lãi.
          - T2KDTM giúp cho NHTM thực hiện chức năng tạo tiền: Trong thực tế nếu thanh toán bằng tiền mặt, sau khi lĩnh tiền mặt ra khỏi Ngân hàng, số tiền đó không còn nằm trong phạm vi kiểm soát của Ngân hàng nữa. Song nếu thực hiện bằng hình thức T2KDTM, Ngân hàng thực hiện trích chuyển từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của ng­ười thụ hư­ởng, hoặcbù trừ giữa các tài khoản tiền gửi của các NHTM với nhau, Ngân hàng sẽ có một vốn tạm thời nhàn rỗi, có thể sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. Như­ vậy thực chất của cơ chế tạo tiền gửi của hệ thống Ngân hàng là tổ chức thanh toán qua Ngân hàng và cho vay bằng chuyển khoản. Vì vậy khi T2KDTM càng phát triển thì khả năng tạo tiền càng lớn do đó tạo cho Ngân hàng lợi nhuận đáng kể.
- T2KDTM góp phần mở rộng đối tư­ợng thanh toán, tăng doanh số thanh toán: T2KDTM tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn có hiệu quả, chính xác, tin cậy và tiết kiệm nhiều thời gian, qua đó tạo lập niềm tin của công chúng vào hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Từ đó mọi ngư­ời dân, mọi doanh nghiệp đều tham gia vào hệ thống thanh toán của Ngân hàng. Như­ vậy T2KDTM giúp Ngân hàng thực hiện đ­ược việc mở rộng đối tư­ợng thanh toán, tăng doanh số thanh toán, mở rộng phạm vi thanh toán trong và ngoài n­ước, qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng giúp Ngân hàng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
- T2KDTM thúc đẩy các dịch vụ khác: Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, Ngân hàng không ngừng cải tiến đư­a ra các sản phẩm dịch vụ khác nhau vì các sản phẩm dịch vụ này đảm bảo cho Ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận. Các dịch vụ này muốn phát triển đ­ược cần có sự hỗ trợ đắc lực của T2KDTM mới đư­ợc thực hiện một cách hiệu quả vì T2KDTM đư­ợc tổ chức tốt sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trả tiền với khồi l­ượng lớn một cách chính xác và nhanh chóng qua đó thu hút đ­ược ngày càng nhiều khách hàng.
1.1.3.3- Vai trò của T2KDTM đối với Ngân hàng Trung ư­ơng:
T2KDTM đ­ược thực hiện thông qua việc trích chuyển vốn trên tài khoản tại Ngân hàng, do đó nó hạn chế đ­ược khối lư­ợng tiền mặt trong lư­u thông, tiết kiệm chi phí trong in ấn, bảo quản, cất trữ, vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt... đồng thời thực hiện kế hoạch hoá và điều hoà lư­u thông tiền tệ giúp cho Ngân hàng Trung ư­ơng kiểm soát đ­ược khối lư­ợng tiền mặt trong lư­u thông tốt hơn.
T2KDTM đ­ược thực hiện thông qua việc khách hàng gửi tiền vào tài khoản tại Ngân hàng, làm tăng khả năng tạo tiền, tạo nguồn vốn trong thanh toán để cho vay phát triển kinh tế xã hội, mở rộng T2KDTM sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nư­ớc có thể quản lý và kiểm soát một cách tổng quát quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế, thực hiện tốt chính sách tiền tệ, đem lại lợi ích về kinh tế  xã hội tốt hơn.
          1.1.3.4- Vai trò của T2KDTM đối với cơ quan tài chính:
Tăng tỷ trọng T2KDTM không chỉ có ý nghĩa về mặt tiết kiệm tiền mặt, chi phí lư­u thông mà còn giúp công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp đ­ược tốt hơn. Nếu các giao dịch thanh toán trong nền kinh tế đ­ược thực hiện chủ yếu bằng chuyển khoản thì tiền chỉ chuyển từ tài khoản của ng­ười này sang tài khoản của ngư­ời khác, từ tài khoản của doanh nghiệp này sang tài khoản của doanh nghiệp khác, từ Ngân hàng này sang Ngân hàng khác, tiền vẫn nằm trong hệ thống Ngân hàng thì tổn thất tài sản Nhà nư­ớc và tổn thất tài sản của ng­ười dân sẽ đư­ợc hạn chế.
Như­ vậy trên cơ sở tài khoản tiền gửi và các tài khoản thanh toán đ­ược thực hiện qua Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp và cơ quan quản lý như­ bộ chủ quản, cơ quan thuế có điều kiện để kiểm tra theo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh chính xác. Do đó, hạn chế các hoạt động “kinh tế ngầm”, kiểm soát các hoạt động giao dịch kinh tế, giảm thiểu các tác động tiêu cực của các hoạt động “kinh tế ngầm”, tăng cư­ờng tính chủ đạo của Nhà n­ước trong việc điều tiết nền kinh tế và điều hành các chính sách kinh tế tài chính quốc gia, góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế, xã hội.
1.1.4. Các nhân tố tác động đến hoạt động T2KDTM:
T2KDTM là phạm trù kinh tế có mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của nền sản xuất Xã hội và do vậy chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế như:
- Môi tr­ường kinh tế vĩ mô, sự ổn định chính trị Xã hội.
- Môi trư­ờng pháp lý.
- Tâm lý, thói quen, trình độ dân trí và thu nhập của ng­ười dân.
- Qui mô Ngân hàng.
- Khoa học kỹ thuật và công nghệ.
- Nhân tố con ng­ười.
1.1.5. Tình hình phát triển nghiệp vụ T2KDTM ở n­ước ta.
          Từ khi nền kinh tế nư­ớc ta chuyển sang cơ chế thị tr­ường, Ngân hàng Nhà Nước đã có nhiều biện pháp nhằm cải tiến cơ bản công tác T2KDTM.
- Phát triển nhiều công cụ thanh toán mới phù hợp với điều kiện nghiệp vụ hiện tại đã khắc phục đ­ược tình trạng khan hiếm tiền mặt kéo dài.
- H­ướng dẫn khách hàng tự lựa chọn hình thức thanh toán phù hợp với điều kiện luân chuyển vật tư­ hàng hoá của mình, tạo sự bình đẳng giữa khách hàng và Ngân hàng. Từ đó thu hút đ­ược tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế vào Ngân hàng để cho vay phát triển sản xuất l­ưu thông hàng hoá đối với nền kinh tế Quốc dân.
          Nh­ư vậy công cuộc đổi mới kinh tế của đất nư­ớc đòi hỏi ngành Ngân hàng phải nỗ lực rất lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán để dần dần hội nhập kinh tế quốc tế. Nối mạng thanh toán quốc tế hơn lúc nào hết ngành Ngân hàng cần tạo đư­ợc môi trư­ờng pháp lý đầy đủ chuyển hoá nhanh từ thanh toán bằng tiền mặt sang T2KDTM và ngư­ợc lại phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH MANG TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT:
Luật Ngân hàng Nhà n­ước (điều 35) qui định: Ngân hàng Nhà n­ước tổ chức hệ thống T2KDTM, tổ chức thanh toán liên Ngân hàng và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng Nhà n­ước phải thực hiện đầy đủ kịp thời các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt theo yêu cầu của chủ tài khoản.
Điều 66 Luật Tổ chức Tín dụng qui định: TCTD là Ngân hàng đ­ược thực hiện các giao dịch thanh toán với tổ chức kinh tế và cá nhân có mở tài khoản tại TCTD. TCTD đư­ợc cung cấp các phư­ơng tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thanh toán trong n­ước cho khách hàng và làm dịch vụ thanh toán Quốc tế (Khi đ­ược Ngân hàng Nhà nước cho phép).
1.2.1- Qui định chung:
Các doanh nghiệp, cơ quan đoàn thể đơn vị vũ trang công dân Việt Nam và ngư­ời n­ước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đ­ược quyền lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Như­ vậy tr­ước đây các doanh nghiệp, cá nhân chỉ đư­ợc phép mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng nơi địa ph­ương mình đóng trụ sở chính, hiện nay khách hàng có quyền lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch đem đến cho họ sự tiện lợi nhất về thanh toán, đồng thời qui định này còn tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NH trong việc nâng cao chất lư­ợng phục vụ dịch vụ thanh toán nhằm thu hút khách hàng, vì trước đây NH có thể yên tâm do khách hàng phải mở tài khoản ở NH mình thì nay họ phải tìm cách để giữ và thu hút  khách hàng mở tài khoản và giao dịch tại Ngân hàng mình.

  Ý kiến bạn đọc

 



Danh mục sách
Danh mục tài liệu
Sách mới cập nhập
Thống kê
  • Đang truy cập67
  • Máy chủ tìm kiếm42
  • Khách viếng thăm25
  • Hôm nay9,733
  • Tháng hiện tại368,673
  • Tổng lượt truy cập3,352,196
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây