LỜI NÓI ĐẦU
Trong cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta xuất phát điểm từ một nước có nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn về mọi mặt. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là đổi mới nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nó quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi sắc.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với điều kiện mới. Hoạt động Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển bền vững.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Song rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh không chỉ gây ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và hiểu rõ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chính vì lý do trên, cùng với sự mong muốn góp sức cho sự phát triển của Ngân hàng công thương Lưu xá nói riêng và của đất nước nói chung, với kiến thức lý luận cơ bản tiếp thu được ở nhà trường, thực tế công tác tại chi nhánh Ngân hàng công thương Lưu Xá, được sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô, chú trong chi nhánh, đặc biệt là sự giúp đỡ của thầy giáo TS Đỗ Quế Lượng. Em mạnh dạn chọn đề tài "Một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Lưu Xá Thái Nguyên " làm luận khoá tốt nghiệp.
Chương I: Tín dụng và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng công tác tín dụng tại Ngân hàng công thương Lưu Xá Thái Nguyên.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Lưu xá - Thái Nguyên.
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONGNỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Ngân hàng thương mại
1.1. Định nghĩa
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển về số lượng, quy mô, hoạt động đa dạng, phong phú và đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức môi giới tài chính khác là ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính từ điều kiện đó đã tạo cơ hội cho ngân hàng thương mại có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống Ngân hàng của mình. Đó cũng là đặc trưng cơ bản để phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại với sự phát triển của nền kinh tế Thứ nhất: Với chức năng chung gian tài chính, ngân hàng là nơi cấp vốn cho nền kinh tế.Thứ hai: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.Thứ ba: Ngân hàng thương mại là một chủ thể tạo sự tác động trực tiếp của những công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buôc, thị trường mở ...các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng và thu hẹp khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông để ổn định giá trị đồng tiền cả về mặt đối nội và đối ngoại.Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
2. Tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng được coi là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người có vốn và người thiếu vốn với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, các nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay ngân hàng, huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ... để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ...để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
2.2. Các hình thức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, dựa vào các tiêu thức khác nhau ta sẽ có các hình thức tín dụng khác nhau.
* Theo thời gian tín dụng thì tín dụng được chia làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm 12 tháng trở xuống, thường được cho vay bổ xung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp, cá nhân ...và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và sử dụng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 5 năm, loại tín dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, tín dụng dài hạn có giá trị lớn có thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
* Theo đối tượng đầu tư thì tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp hay cho vay để bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này thường được chia thành các loại cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất và cho vay để thành toán các khoản nợ dưới hình thức khấu trừ chứng từ có giá.
- Tín dụng vốn cố định là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành nên vốn cố định của doanh nghiệp. Loại tín dụng này thường ược sử dụng cho nhu cầu đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất xây dựng các công trình mới, thời hạn cho vay đối với loạitín dụng này là trung hạn và dài hạn.
Ngoài ra để phân loại tín dụng người ta còn căn cứ vào:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng là cho vay bất động sản, cho vay thương mại dịch vụ, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng.
- Căn cứ vào tính chất bảo đảm của tín dụng gồm tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm.
- Căn cứ vào hình thái gia trị tín dụng là cho vay bằng tiền hay cho vay bằng tài sản.
- Căn cứ vào mức lãi suất, người ta phân biệt tín dụng thương mại và tín dụng ưu đãi.
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả có các hình thức cho vay trả góp, cho vay phí trả góp và cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
Việc phân loại tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tín dụng ở ngân hàng giúp ngân hàng xác định được cơ cấu cho vay có phù hợp với tính chất nguồn vốn của ngân hàng hay không, có bảo đảm an toàn không.
II. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh càng quyết liệt, nguy cơ rủi ro trong kinh doanh ngân hàng càng rễ phát sinh. Mặc dù rủi ro luôn sảy ra nhưng hoạt động của ngân hàng vẫn luôn phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước.
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế xã hội đèu nhanh chóng tác động đến hoạt động ngân hàng.
Rủi ro là sự kiện xẩy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như hoạt động nào của ngân hàng thương mại cũng có rủi ro. Rủi ro thường dẫn đến thiệt hại và thua lỗ. Do vậy nhận thức rõ rủi ro, đề ra những biện pháp phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp bách của mỗi ngân hàng.
Khi xem xét rủi ro, người ta thường chú ý đến yếu tố chi phí, tổn thất và thua lỗ. Cụ thể:
- Chi phí: Chi phí hoạt động của ngân hàng là yếu tố không thể thiếu để thực thi các nghiệp vụ. Các chi phí cho hoạt động của ngân hàng thường bao gồm; Chi phí trả lãi xuất cho người gửi tiền, lãi tiền vay cho các tổ chức tín dụng, tiền lương của cán bộ ngân hàng, chi phí mua sắm các phương tiện làm việc và chi phí nghiệp vụ khác. Rủi ro có thể xảy ra dưới các dạng như phải nâng cao lãi xuất tiền gửi do sự biến động của thị trường tiền tệ, tăng lãi xuất cho vay của các tổ chức tín dụng, các khoản chi phí ảnh hướng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng, bắt buộc ngân hàng phải thực hiện một số biện pháp phù hợp
- Về thua lỗ: Sự thua lỗ biểu hiện dưới hình thức không đạt được thu nhập như dự kiến hay chi vượt dự toán mà thu nhập không thể bù đắp được.
- Về tổn thất: Sự tổn thất của ngân hàng có thể hiểu là thiệt hại về vật chất và uy danh của ngân hàng. Tổn thất là chỉ tiêu đặc trưng cho các rủi ro của ngân hàng nên nó được dùng để đánh giá mức độ rủi ro và chất lượng của chiến lược trong lĩnh vực rủi ro.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói riêng không thể tránh khỏi rủi ro. Đối với một ngân hàng, việc kiểm soát rủi ro là quá trình phối hợp giữa những hoạt động nghiệp vụ, giữa những chính sách nội bộ, giữa những thoả thuận hợp đồng với các cơ quan bảo hiểm. Cũng như tiến hành các biện pháp tự bảo hiểm và các biện pháp khác để giảm bớt đi các chi phí, các thiệt hại bất ngờ, kể cả vào lẩn tránh sợ phá sản của Ngân hàng.
Chúng tôi trên mạng xã hội