Cũng giống như bất cứ loại hình doanh nghiệp nào, mục đích chính của ngân hàng là lợi nhuận. Tuy nhiên, ngân hàng là tổ chức đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo ra các tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tàI sản quan trọng.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phảI hoàn trả cả gốc và lãI trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận. Nói chung, tiền cho vay là loại kém lỏng so với tàI sản khác bởi vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản vay đó mãn hạn. Các khoản tiền vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với tàI sản khác, hay nói cách khác đây là khoản mang lại thu nhập lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại nhưng phảI đối đầu với rủi ro tín dụng cao .
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới và phát triển kinh tế theo hướng thị trường với định hướng Xã hội chủ nghĩa, Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tập trung vốn cho vay theo những mục tiêu kinh tế lớn của đất nước góp phần đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đời sống dân chúng được cải thiện. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề vướng mắc, thêm vào đó môi trường kinh doanh ngân hàng ngày càng năng động hơn nhưng rủi ro cũng lớn hơn làm cản trở quá trình mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Từ đó đòi hỏi phải có các giải pháp tháo gỡ khả thi trong hoạt động cho vay mới có thể đáp ứng đựơc nhu cầu đầu tư của nền kinh tế trong tình hình mới.
Vì vậy, em đã chọn đề tàI ''Hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam'' để phân tích.
Đề tài nghiên cứu về tổ chức và thực hiện nghiệp vụ cho vay trong hệ thống ngân hàng, phát hiện những kết quả, tồn tại và nguyên nhân trong cấp tín dụng tại Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam thời gian qua từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ cho vay.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tàI là phân tích thực trạng hoạt động nghiệp vụ cho vay của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua.
Nội dung của đề tài:
- Hệ thống hoá và làm rõ các khái niệm, nguyên tắc và các nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng thương mại
- Đánh giá tổng quát và phân tích thực trạng triển khai nghiệp vụ cho vay tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam hơn 15 năm qua, từ đó rút ra những ưu điểm và tồn tại trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho vay đảm bảo hiệu quả cao nhất, góp phần vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Kết cấu của đề tài:
- Tên đề tàI "Hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của Sở giao dịch I-Ngân hàng Công thương Việt Nam".
- Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tàI gồm ba chương:
Chương thứ nhất: Nghiệp vụ cho vay của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam .
Chương thứ hai: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ cho vay của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương thứ ba: Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ cho vay của Sở giao dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1.1- Khái niệm nghiệp vụ cho vay của ngân hàng.Các chế độ xã hội khác nhau thì hình thành các quan hệ tín dụng khác nhau và ngày càng trở lên đa dạng, phong phú. Hình thức tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi, ra đời và tồn tại trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phát triển trong chế độ phong kiến. Cơ sở tồn tại của tín dụng nặng lại là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán, phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, đời sống bấp bênh, sản phẩm dư thừa hạn chế, trong khi đó nhu cầu cần được bổ sung lại rất phổ biến. Những người có khả năng cho vay là những người giàu có nhiều quyền lực: chủ nô, quý tộc, quan lại, địa chủ, nhà thờ và những người chuyên nghề cho vay nặng lãi. Những người đi vay, phần lớn là nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán hàng hoá nhỏ cần tiền để giải quyết nhu cầu cấp bách trong việc duy trì cuộc sống tối thiểu cần thiết.Muốn được vay họ phải cầm cố mảnh đất, trâu bò, nhà cửa nếu không trả được sẽ bị tước đoạt hết những tài sản đó. Ngoài ra vua chúa quý tộc phong kiến cũng đi vay để đáp ứng nhu cầu ăn chơi xa xỉ như xây dựng lâu đài, tổ chức lễ hôi, mua đồ trang sức ... Để có tiền trả nợ họ ra sức bóc lột nông dân, thợ thủ công bằng sưu cao, thuế nặng. Như vậy đặc điểm của tín dụng nặng lãi chính là lãi suất cao. Cao vô hạn độ, nó không chỉ là sản phẩm thặng dư mà còn ăn thâm vào sản phẩm cần thiết của người lao động. Chính vì thế tín dụng nặng lãi trở thành một hình thức tín dụng tiêu dùng, thể hiện trong mục đích của việc sử dụng tiền vay đối với cả người nghèo khổ và người giầu có. Với tính chất nặng lãi, tín dụng nặng lãi đã phá huỷ sự giầu có của xã hội, đối lập với sự phất triển của xã hội, nhưng vẫn tồn tại vì nhu cầu vay thì lớn trong khi đó khả năng cho vay lại hạn chế. Mặt khác, với người đi vay là những người nghèo khổ, nó là nhu cầu tối thiểu cần thiết không thể trì hoãn được. Còn với những người giầu có thì nguồn trả nợ là từ việc nâng cao sưu thuế nên không cần quan tâm đến lãi suất.Cho vay nặng lãi với hình thức vận động của vốn trong quan hệ cho vay biểu hiện rất đa dạng;- Cho vay bằng hiện vật, thu nợ bằng hiện vật (cho vay vào thời kỳ giáp hạt, khi đến vụ thu hoạch thu nợ bằng thóc) hoặc thu nợ bằng tiền, bằng ngày công lao động. - Cho vay bằng tiền, thu nợ bằng hiện vật, bằng ngày công lao động hoặc bằng tiền.Tuỳ theo từng hình thức vận động của vốn mà tín dụng nặng lãi thích hợp với nông thôn hay thành thị. Nhưng do tính chất là tín dụng nặng lãi nên nó phát huy tác dụng hai mặt. Một mặt nó tàn phá sức sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì nó cố bám lấy nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán là điều kiện cho nó tồn tại. Mặt khác nó góp phần tạo ra tiền đề vật chất cho sự ra đời của tư bản chủ nghĩa, vì nó làm cho của cải xã hội tập trung vào trong tay một số người, trong khi đó những ngườ vay nặng lãi không trả được, bị mất hết tài sản và trở thành người làm thuê và đó chính là giai cấp vô sản. Tuy vậy tín dụng nặng lãi vẫn là vật cản đối với sự phát triển của tư bản công nghiệp. Trong lịch sử, để tồn tại và phát triển các nhà tư bản đã phải đấu tranh lâu dài hàng thế kỷ để buộc những người cho vay nặng lãi hạ mức lãi suất dưới mức lợi nhuận bình quân. Những cuộc đấu tranh này lúc đầu dựa trên cơ sở luật pháp và tôn giáo nhưng không đạt hiệu quả hoặc hiệu quả thấp. Chỉ còn cách thủ tiêu vai trò độc quyền tín dụng của những người cho vay nặng lãi, tức là lập ra hệ thống tín dụng của giai cấp tư sản với các hình thức đa dạng phong phú. Tuy vậy hình thức tín dụng tư bản chủ nghĩa chỉ có tác dụng hạn chế, đẩy lùi mà không xoá bỏ hoàn toàn tín dụng nặng lãi. Cho đến ngày nay tín dụng nặng lãi còn tồn tại ở các nước kinh tế kém phát triển do ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Mức thu nhập của người lao động thấp, hệ thống tín dụng chưa phát triển đến các vùng nông thôn, miền núi. Bất cứ xã hội nào còn sản xuất hàng hoá thì vẫn có sự tồn tại của tín dụng và sự hoạt động của nó. Nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và phát triển tín dụng là đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tái sản xuất xã hội đã xuất hiện mâu thuẫn: trong lúc có một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi được giải phóng khỏi quá trình tái sản xuất ở doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân này thì ở các chủ thể khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung.Vốn tiền tệ nhàn rỗi xuất hiện ở từng doanh nghiệp do tuần hoàn của vốn cố định dưới hình thức vốn khấu hao trong thời gian chưa sử dụng để mua máy móc thiết bị mới hoặc chưa có nhu cầu sửa chữa lớn tài sản cố định, trong khi việc tính khấu hao được tiến hành một cách thường xuyên. Tuần hoàn của vốn lưu động cũng xuất hiện vốn tiền tệ nhàn rỗi tạm thời do chênh lệch về số lượng, thời gian giữa việc tiêu thụ sản phẩm và mua nguyên vật liệu (đã tiêu thụ sản phẩm nhưng chưa có nhu mua nguyên vật liệu hoặc bán nhiều hơn mua). Do có những khoản phải trả nhưng chưa trả (lương ...) phải nộp nhưng chưa nộp (thuế ...) hoặc những khoản vốn tiền tệ nhàn rỗi hình thành trong quan hệ thanh toán với các hình thức thanh toán khác nhau (nhận tiền nhưng chưa giao hàng hoặc nhận hàng nhưng chưa phải trả tiền).Trong toàn xã hội cũng xuất hiện một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi do chênh lệch về số lượng và thời gian trong việc thu, chi của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội, kể cả ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là bộ phận tiền nhàn rỗi dưới hình thức tiền để dành của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong khi có những bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi nằm rải rác ở các chủ thể kinh tế này thì ở các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung. Các doanh nghiệp thiếu vốn cố định khi cần thay thế máy móc thiết bị mới hoặc có nhu cầu sửa chữa lớn tài sản cố định mà chưa tính đủ khấu hao. Mặt khác, doanh nghiệp lại có nhu cầu mở rộng phạm vi, quy mô sản xuất kinh doanh, nhu cầu cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất hoặc chuyển dịch vốn sang các ngành kinh doanh khác.Nhu cầu vốn lưu động cần được bổ sung do chưa tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá mà đã có nhu cầu mua nguyên vật liệu hoặc bán ít hơn mua. Điều này đặc biệt cần thiết với những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh mang tính chất thời vụ.
Chúng tôi trên mạng xã hội