LỜI NÓI ĐẦU
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp.
Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành và phát triển góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh XHCN, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, nên kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế Chính trị Mác- Lênin
Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường.. Có thể phân chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành hai khu vực là khu vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế Ngoài quốc doanh.
Trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD, mà hẹp hơn là đối với 2 thành phần kinh tế là tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ, cụ thể là khu vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp NQD và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
Lý do em chọn đề tài này là do khu vực kinh tế có phạm vi rộng nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời 2 thành phần kinh tế này mới được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI chính thức thừa nhận tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ.
Luận văn được kết cấu như sau:
Chương I: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốcdoanh ở nước ta hiện nay.
CHƯƠNG I
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ
NGOÀI QUỐC DOANH
ĐẶC ĐIỂM CỦA KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ trải qua một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các thành phần kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế CNXH. Nhà nước XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần kinh tế XHCN ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của CNXH.
Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN không thể không quan tâm đến sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác trong đó có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD). Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế còn chưa mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng nhất giữa các ngành các vùng, trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém lại vừa qua khỏi chiến tranh. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất đang hết sức gay gắt. sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó có kinh tế NQD hay không có tính chất quyết định. Tuy nhiên chấp nhận sự tồn tại của kinh tế NQD không có nghĩa là để quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống trị xã hội mà chỉ để quan hệ sản xuất tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất chứ không có nghĩa xoá bỏ hoàn toàn kinh tế NQD. Nhưng muốn quan hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền kinh tế của xã hội thì không phải bằng con đường bóp nghẹt như đã làm trước đây, mà phải bằng cách xoá bỏ dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó kinh tế nông nghiệp là quan trọng nhất.
Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ đã được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu được và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội trước đây đối với khu vực kinh tế NQD vẫn còn khá nặng nề. Khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang xây dựng, chưa hoàn chỉnh. Song từ khi có Luật Doanh nghiệp (DN) có hiệu lực, môi trường kinh doanh đã bước đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã được xoá bỏ, nhiều doanh ngiệp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tận dụng được hết năng lực vốn có và tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển sản xuất, kinh doanh...
Vậy định hướng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách quan phải trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu khách quan của kinh tế NQD và xu hướng nền kinh tế này phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong thời nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế
Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH, công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát huy được vai trò của mình trong tình hình kinh tế hiện nay.
2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực kinh tế NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là: khu vực thu hút nhiều lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường...mà vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường. Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra.
2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động là rất lớn. Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi lao động phải có văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc trong khu vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao động không thể làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình độ cao đến những lao động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn định và ngày càng tăng
Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD mới đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày càng tăng và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu vực này còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện hưởng ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thương binh, gia đình liệt sĩ, xây dựng trường học, đường xá đóng góp vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nước rất lớn.
Chúng tôi trên mạng xã hội