Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Tài liệu hay
Các tài liệu thuộc danh mục Tiểu luận
Mã tài liệu
Ngày đăng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T061 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam trong sự phát triển của Đông Á và Đông Nam Á, hay nói rộng hơn là vòng cung Châu Á-Thái Bình Dương, hiên nay đang thu hút được nhiều người trong giới lãnh đạo và giới kinh doanh trên thế giới. Vì sao Việt Nam có sự chú ý đó? chắc chắn là do Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và ngày càng sâu sắc về cơ sở hạ tầng và kiến chúc thượng tầng xã hội. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen - quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tình phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng đò hỏi của cơ sở hạ tầng. Đã có rất nhiều văn kiện trính trị và luận văn khoa học đề cập sâu sắc về công cuộc đổi mới này. Vì vậy, với tư cách là một sinh viên còn trên giảng đường, em chỉ mong bài viết này có thể nêu một số vấn đề có tính chất khái quát về công cuộc đổi mới này ở Việt Nam.

Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T060 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam - trong công cuộc đổi đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế. Nhân tố quan trọng nhất quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được khởi xướng từ sau đại hội Đảng lần thứ VI. Ăng Ghen nói: “ Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế ”. Kinh tế là nền tảng vững chắc cho mọi hoạt động vật chất của con người, là yếu tố quan trọng nhất của đời sống xã hội. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn gặp rất nhiều khó khăn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.

Địa vị pháp lý của các cơ quan hành chính trong bộ máy Nhà nước  

Địa vị pháp lý của các cơ quan hành chính trong bộ máy Nhà nước Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T058 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong quá trình đổi mới đất nước, theo Hiến pháp 1992 thể chế hành chính của các cơ quan Nhà nước đã được thay đổi khá nhiều phù hợp với việc quản lý xã hội, đáp ứng được công cuộc xây dựng đất nước XHCN. Cơ cấu quản lý hành chính đã được điều chỉnh, giảm bớt sự cồng kềnh giảm thiểu sự quan liêu để tiến tới sự một xã hội công bằng văn minh và phát triển. Việc xây dựng cơ cấu của các cơ quan hành chính mới không làm thay đổi hoặc suy giảm quyền lực và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác địa vị pháp lý của cơ quan được đề cao và tăng cường kiểm tra giám sát đối với từng bộ phận, hiểu được đường lối chỉ đạo hợp lý của Nhà nước và vai trò tích cực của các cơ quan quản lý Nhà nước. Chính vì vậy, quyền và nghĩa vụ đây chính là địa vị pháp lý của cơ quan quản lý Nhà nước. Mặt khác, địa vị pháp lý của các cơ quan được đề cao và tăng cường kiểm tra giám sát đối với từng bộ phận, từng lĩnh vực xã hội phát triển không thể thiếu được đường lối chỉ đạo hợp lý của Nhà nước và vai trò tích cực của các cơ quan trong Bộ máy hành chính Nhà nước và điạ vị đó được thể hiện trong việc ban hành văn bản vi phạm pháp luật.

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam  

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T056 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Chương I: Hội nhập kinh tế một xu hướng tất yếu của nước ta trên con đường tiến lên CNXH 1. Xu hướng hội nhập thế giới xu hướng của thời đại: Như chúng ta đã biết, cách đây hàng nghìn năm đã có sự trao đổi hàng hoá trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, suốt thời gian dài dưới thời kì chiếm hữu nô lệ và thời kì phong kiến quan hệ trao đổi hàng hoá phát triển không đáng kể. Về mặt cơ bản, nền kinh tế của từng quốc gia vẫn mang tính tự cung tự cấp. Với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, quan hệ trao đổi hàng hoá đã có sự thay đổi về chất. Trong từng quốc gia, nền kinh tế với một thị trường thống nhất được hình thành, các loại hàng hoá và số lượng hàng hoá trao đổi được tăng lên rất nhiều, đặc biệt sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Chủng loại hàng hoá và số lượng hàng trao đổi giữa các quốc gia cũng tăng lên nhanh chóng. Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển thì lượng hàng hoá trao đổi giữa các quốc gia càng lớn, chính vì vậy sự phụ thuộc về mặt kinh tế giữa các quốc gia càng chặt chẽ hơn. Vào những năm 80 của thế kỉ XX, khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, con người đang dùng khối óc vĩ đại mà tự nhiên ban cho để khám phá và chinh phục thế giới. Chính nhờ sự phát triển như vậy của khoa học kĩ thuật mà sự giao lưu giữa các nước, các cá nhân, các nhà kinh doanh với nhau trở nên dễ dàng. Các nước có thể học tập, trao đổi với nhau tạo nên sự đan xen đa chiều, vừa ảnh hưởng, vừa tuỳ thuộc vào nhau. Dần dần, trên thế giới hình thành một xu thế đó là: xu thế “Toàn Cầu Hoá”. Hiện nay, xu thế này đang ngày càng lan rộng thu hút hầu hết các nước trên thế giới tham gia. Việt Nam cũng là một thành viên trong ngôi nhà chung của thế giới nên cũng không thể đứng ngoài vòng xoáy trên. Từ lâu nay, Đảng và Nhà Nước ta đã xác định rất rõ thái độ của chúng ta với “Toàn Cầu Hoá”: “ Việt Nam luôn ủng hộ quá trình hội nhập và hợp tác mọi bên cùng có lợi” Điều này đã được các nhà lãnh đạo Đảng ta khẳng định rất rõ ràng trong các kì đại hội. Việt Nam đã có tới 10 năm đổi mới và mở cửa để hội nhập và đang tiếp tục cố gắng để hoà nhập vào xu thế chung của thế giới. Từ 10 năm nay, Việt Nam không ngừng xây dựng đất nước vững mạnh và tăng tốc hội nhập để theo kịp các nước trên thế giới. Chúng ta đã có được một số thành tựu nhất định nhưng cũng còn rất nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, nhân dân ta quyết một lòng xây dựng đất nước nhanh chóng trở thành một nước phát triển và hội nhập thật tốt. 2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này: Như các nhà lãnh đạo của chúng ta đã khẳng định, Việt Nam luôn muốn hoà nhập thật tốt vào hội nhập thế giới. Nhưng làm sao vừa hội nhập cho thật tốt lại vừa đảm bảo được chủ quyền. Trên thực tế đã có rất nhiều bài học cay đắng của các nước đi trước, do hội nhập không đúng đã dẫn tới mất chủ quyền phụ thuộc vào bên ngoài. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp tôi và các bạn hiểu rõ thêm về “Toàn Cầu Hoá” đồng thời biết được những bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bản tiểu luận này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về những thành tựu của nước ta đã thực hiện được và những bước đi sắp tới. Chương II : Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến 1. Triết học Mac- LêNin: Triết học Mac- LêNin cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mac- LêNin ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX do C.Mac và Ph.Ăngghen sáng lập ra. Sau đó, V.I.LêNin phát triển nó cao hơn. Triết học Mac- LeNin ra đời không phải chỉ do sự suy tư cá nhân, sự tưởng tượng của C.Mac và Ph.Ăngghen mà do những nguyên nhân kinh tế, xã hội và sự phát triển của nhân loại trước đó quy định. Triết học Mac- LêNin ra đời dựa trên 3 cơ sở cơ bản sau: (a) Cơ sở về kinh tế và xã hội: Vào những năm đầu của thế kỉ XIX các cuộc cách mạng công nghiệp đã đem lại cho các nước TBCN sự phát triển mạnh mẽ. Để nhận xét về điều này C.Mac đã nói: “ Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỉ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước cộng lại”. Sự phát triển ấy đã chứng minh tính chất tiến bộ của phương thức sản xuất TBCN hơn hẳn các chế độ khác trước đó. Tuy nhiên, sự phát triển đó ngày càng làm hằn sâu thêm sự mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh và đứng lên đấu tranh giành quyền lợi. Chính vì vậy họ cần một thứ vũ khí lý luận sắc bén và triết học Mac- LêNin ra đời đã thoả mãn được yêu cầu đó. (b) Cơ sở lý luận: Triết học Mac- LêNin dựa trên phép biện chứng của Hêghen và quan điểm duy vật triệt để của Phoi-ơ-băc. Hai ông C.Mac và Ph.Ăngghen đã dựa và đó sáng lập ra phép biệnchứng duy vật. Các ông đã kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Hêghen và Phoi-ơ -băc. Đồng thời, hai ông cũng dần dần bù đắp những thiếu sót. (c) Cơ sở khoa học tự nhiên: Do sự phát triển mạnh của KH-TN đã đánh đổ phương pháp tư duy đang thống trị lúc bấy giờ là: phương pháp siêu hình. Điều đó mở đường cho sự ra đời và phát triển của phép biệ chứng duy vật. Trong số các phát minh thì có 3 phát minh ảnh hưởng nhiều nhất tới sự ra đời của triết học Mac: + Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. + Học thuyết về cấu tạo tế bào. + Học thuyết về sự tiến hoá. 2. Phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến 2.1 Liên hệ – Liên hệ phổ biến: Liên hệ: là sự quy đinh lẫn nhau, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật hiên tượng với nhau. Liên hệ phổ biến: là những mố liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong TN, XH và cả tư duy. Mối liên hệ phổ biến mang tính chất bao quát tồn tại thông qua các mối liên hệ đặc thù của sự vật hiện tượng, nó phản ánh tính đa dạng và đặc thù của thế giới. 2.2 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau. Vậy chúng ta đặt ra hai câu hỏi: + Giữa chúng liệu có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? + Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó? Để trả lời câu hỏi thứ nhất, các nhà triết học theo quan điểm biên chứng cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Khi trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo quan điểm biện chứng cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này các dự vật, các hiện tượng đa dạng trên thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng của con người cũng là một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan. Ngoài ra, theo quan điểm duy vật biên chứng còn thừa nhận tính đa dạng của sự liên hệ: có mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bên trong; có mối liên hệ thứ yếu và mối liên hệ chủ yếu... Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động vầ phát triển của các sự vật hiện tượng. Trong đó, mối liên hệ bên trong giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vân động, phảttiển của sự vật. Mối kiên hệ bên ngoài, nói chung, không có ý nghĩa quyết định và thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng.Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các mối liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong tính đa dạng của hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy con người, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung mang tính phổ biến.

Phật giáo, một hiện tượng tôn giáo và triết học của dân tộc  

Phật giáo, một hiện tượng tôn giáo và triết học của dân tộc Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T055 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sự giao lưu giữa các quốc gia trong một khu vực đã phá vỡ cái thế riêng biệt của tâm lý, tư tưởng trong từng dân tộc làm cho tâm lý và tư tưởng đó hoà vào cái chung của khu vực. Việt Nam cũng ở trong một quá trình như thế. Theo chân các nhà buôn, nhà truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ I và thứ II sau công nguyên. Sau đó, nối gót người Ấn Độ các nhà Phật giáo Bắc tông vào. Rồi những người tìm đường sang Trung Quốc, Ấn Độ học Phật trở về cũng tiếp tục truyền bá Phật giáo. Bằng những con đường khác nhau đó, Phật giáo, một tôn giáo chung của nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á lúc bấy giờ cũng tìm được chỗ đứng ở Việt Nam. Nhưng Phật giáo có nguồn gốc ở xã hội Ấn Độ cổ đại vốn mang trong mình những đặc điểm của tư tưởng và tôn giáo, của con người và xã hội của quá khứ và hiên tại Ấn Độ lúc bấy giờ. Có những điều không phù hợp với con người và xã hội Việt Nam đương thời. Vì vậy để phát triển được ở Việt Nam, Phật giáo phải trải qua một quá trình: 1,Vào giai đoạn đầu của thời kỳ truyền bá Phật giáo vấp phải sự phản ứng của các tín ngưỡng cổ truyền của người Việt Nam, của tục thờ phụng tổ tiên, của lệ cúng bái thổ công và các thói quên thờ cúng thành hoàng.. . Người Việt Nam mang các tín ngưỡng trên không khỏi ngỡ ngàng trước Phật giáo. Họ đã xa lánh, thậm trí chê bai, đả kích. 2,Vào thời kỳ sau của sự truyền bá, lúc Phật giáo đã làm quen với dân tộc nó vẫn còn liên tục bị sự mổ xẻ của một số người. Người ta đã đặt nó trên bình diện chính trị - xã hội để khảo nghiệm và thấy rằng ở Phật giáo có những điều không thích hợp. Do đó, nhiều người Việt Nam trong những thời kỳ khác nhau đã phê phán, kỳ thị Phật giáo như : Đàm Mĩ Mông (thế kỷ XII); Lê Quát, Trương Hán Siêu (thế kỷ XIV); Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du (thế kỷ XVIII); Phạm Quý Thích (thế kỷ XIX)... đều xem Phật giáo là điều có hại cho xã hội.

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến với định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam  

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến với định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T054 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá hiện nay, các quốc gia trên thế giới ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Vì thế nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu, trái lại mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước, mỗi quốc gia. Đứng trước yêu cầu ngày càng cấp bách đó, Đại hội Đảng IX đã đưa ra văn kiện về vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau nhằm phát triển nền kinh tế nước ta ngày càng vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến tôi viết bài tiểu luận này với mong muốn mọi người có một cách nhìn sâu sắc hơn, cặn kẽ hơn, toàn diện hơn về những nguy cơ thách thức cũng như thời cơ khi chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập kết hợp với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, và ảnh hưởng qua lại giữa việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.

Mâu thuẫn biện chứng và biểu hiện của nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam  

Mâu thuẫn biện chứng và biểu hiện của nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T053 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xi nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá ... Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành... Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to lớn nhưng trong những thnàh công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế.

Lênin nói "Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập" từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ  

Lênin nói "Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập" từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T052 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đại hội Đảng VI đã mở ra một trang mới cho lịch sử kinh tế Việt Nam. Bước ngoặt này có ý nghĩa trọng đại: Biến nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt này đánh dấu sự thay đổi, phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội Việt Nam. Sự phát triển này phải chăng là kết quả của Việt Nam trước Đại hội Đảng VI? Và sự phát triển nào phải chăng cũng cần trải qua một thời kỳ gọi là. Thời kỳ quá độ? Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản lý xã hội thiên tài đã luôn luôn nhìn xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với tầm nhìn chiến lược hàm chứa phép biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn muốn thay thế xã hội bằng xã hội khác tốt hơn. Bởi vậy ông đã nói” “Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập”. Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng và siêu hình. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và hoàn thiền dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật. Triết học khi nói đến phát triển thì luôn chú ý đến nguồn gốc và động lực của phát triển và khuynh hướng của sự phát triển. Sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan trong sự phát triển của sự vật hiện tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. Phép biện chứng nói rằng: Sự vật nào cũng có mặt trái ngược, cũng chứa động mâu thuẫn bên trong của nó, bản thân sự vật, cả trong tự nhiên và trong xã hội. Trong các mặt đối lập bao giờ cũng có sự đấu tranh gạt bỏ lẫn nhau. Phép biện chứng đã tìm thấy sự thấp nhất giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau mà lẫn vào nhau, thâm nhập trong nhau, mặt này chứa đựng mầm mống của mặt kia, chúng tác đọng qua lại lẫn nhau làm điều kiện cho nhau tồn tại và phát triển. Sự phát triển từ cái này thành cái khác cần một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong nền kinh tế sự phân công lao động toạ ra mối quan hệ hữu cơ giữa người và người tạo ra sự phát triển xã hội. Lênin nói “Do phân công lao động, ai lo cho người ấy, mọi người vì một người, một người vì mọi người, và phải tìm thấy mình trong người khác, còn chúa không thể lo cho người được".

Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay  

Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T051 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
QBước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có những bước tiến quan trọng trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng dần loài người lên một tầm cao mới. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin vào qúa trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết.

Quan điểm toàn diện và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay  

Quan điểm toàn diện và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T050 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó cũng có những điểm khác so với trước đây. Trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thất bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên xô và các nước Đông Âu, còn ở Việt nam do nhận thức và vận dụng sai lầm đã dẫn đến tụt hậu về kinh tế và khủng hoảng về chính trị. Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. Thực tiễn hơn 10 năm đổi mớỉ nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của đảng đã khẳng định”xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chinhs sách đối nội đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác.

Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế  

Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T049 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật luôn luôn xẩy ra mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân sự vật hay mâu thuẫn giữa các sự vật với nhau. Triết học Mác-Lênin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Xác định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ cho phép con người tìm ra được những giải pháp phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển. Từ lí luận mâu thuẫn, ta xem xét mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu khách quan trong giai đoạn hiện nay, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển như Việt Nam. Vì toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược. Trong điều kiện thế giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn toàn toàn cầu hoá hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá. Vấn đề đối với các quốc gia là, phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để vượt qua thách thức và chớp lấy thời cơ, đồng thời phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh. Tức là phải tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tốt mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta  

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T048 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay trên thế giới sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ tri thức đồng diễn ra với tốc độ chóng mặt, cuộc cách mạng đó đã đem đến thành tựu to lớn cho nhiều nước biết vận dụng vào hàng sản xuất, đưa họ trở thành nhiều cường quốc phát triển trên thế giới hiện nay. Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế vẫn ở trong trình độ thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế phong kiến kéo dài, nông nghiệp vẫn chủ yếu là trồng lúa. Nền công nghiệp lạc hậu chưa có thành tựu nào quan trọng đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Muốn đưa nền kinh tế đi lên để có thể sánh ngang với các nước trong khu vực Đông nam á Thái Bình Dương.. và để trở thành con Rồng kinh tế thì công nghiệp hoá hiện đại hoá phải được coi trọng, đánh giá đùng mức sự cần thiết của nó trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình thực hiện CNH- HĐH nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu lớn: Đã xây dựng được một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định cho xã hội mới, đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ hơn( tăng tỷ trọng của các nghành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP, phát triển nông nghiệp toàn diện hơn..) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Vậy thế nào là CNH- HĐH? và vai trò của CNH- HĐH ở nước ta trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay như thế nào? CNH- HĐH hiểu theo nghĩa chung và khái quát là chuyển một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại với trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các nghành kinh tế quốc dân.

CNH-HĐH và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta  

CNH-HĐH và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T047 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
T ừ đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là “Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng“. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm tăng trưởng nhanh ổn định, nước ta phải xác định rõ cơ cấu kinh tế hợp lý, trang thiết bị ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Mặt khác, nước ta là nước đang phát triển vì vậy quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá để từ đó hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của ta trước đây do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân nóng vội chúng ta đã mắc phải một số sai lầm khuyết điểm mà đại hội Đảng lần thứ VI và VII đã vạch ra. Việc xây dựng đúng đắn những quan điểm CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay có vị trí rất quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH. Bởi xây dựng đầy đủ các quan điểm CNH-HĐH sẽ là cơ sở đúng đắn cho việc định hướng, định lượng chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nội dung và các bước đi của CNH-HĐH phù hợp với bối cảnh xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã đưa sự nghiệp đổi mới lên tầm cao mới, đẩy mạnh CNH-HĐH. Mặt khác, CNH-HĐH đất nước phải chứa đựng được mục tiêu, chiến lược, nội dung, hình thức, phương hướng cách mạng của đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Để đạt mục tiêu nhất quán và xuyên suốt đó là dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì Đảng ta phải trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa 15 năm đổi mới đất nước.

Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vận dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta  

Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vận dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T046 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất. Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vận chất và ý thức. Vấn đề này đã được nhận thực đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Giao thông ở Hà Nội thực trạng và giải pháp  

Giao thông ở Hà Nội thực trạng và giải pháp Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T045 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong rất nhiều vấn đề nóng bỏng của đời sống xã hội, an toàn giao thông được giới báo chí và truyền thông quan tâm đặc biệt. Bởi đó là vấn đề mà hàng ngày hàng giờ ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn tính mạng của người tham gia giao thông. Hàng ngày trong chương trình chào buổi sáng lúc 6h, sau trang tin tức là đến bản tin an toàn giao thông. Chúng ta phải giật mình vì những vụ tai nạn giao thông thương tâm xảy ra trong cả nước. Và ngay trong lòng thủ đô, giám chắc rằng có ít nhất một lần bạn chứng kiến một vụ va chạm nào đó hoặc nếu không thì chí ít đó cũng là tắc đường trong giờ cao điểm. Thật là bực mình mỗi khi tắc đường thay vì đi thẳng về nhà bạn phải ngồi lại hàng giờ trên xe buýt, đi đủ một vòng để có thể về nhà. Hay có khi phải đứng giữa nắng trang trang của tháng 5 để chờ cho dòng xe lưu thông. Những cảnh tượng ấy đã trở nên quá quen thuộc với người dân Hà Nội. Và câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể khắc phục tình trạng trên? Dưới cái nhìn của triết học duy vật biện chứng thì thực trạng mất an toàn giao thông đường bộ ở Hà Nội được phân tích thành mâu thuẫn cơ bản bên trong giữa một mặt là bản chất với một mặt là hiện tượng thực trạng đó. Chính mâu thuẫn này thúc đẩy nhà nước đưa ra những luật lệ, những quy định, những biện pháp mới nhằm làm hạn chế thực trạng trên.

Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay  

Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T044 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà theo cách nói của Hồ Chí Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Và cũng chỉ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới có thể làm thoả mãn ham muốn tột cùng, ham muốn cuối đời của Người đó là : “Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành ...”. Vậy chúng ta phải làm thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Từ thực tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình nước ta. Làm đề tài tiểu luận này, vơí tư cách là một sinh viên, một công dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt tôi muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Triết học Mác - Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Mặt khác, tôi cũng muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội- mà nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là, mọi sách lược, chiến lược cách mạng của chúng ta phải được xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy được tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Đây được coi là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó quyết định sự thành công hay thất bại trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội  

thức và vai trò của tri thức trong đời sống xã hội Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T043 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng. Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chung ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa.Còn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam  

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 08-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T042 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là sự lựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con đường TBCN mà kiên định đi theo CNXH ? trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳ diệu,là thành tựu của nhân loại.Bên cạnh đó lịch sử thế giới đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm về sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ 1945.Đó là những nước đều đạt những thành tựu to lớn về khoa học kỹ thuật,về kinh tế xã hội.Trong khi,xã hội Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn,lạc hậu ở Đông Nam á.Vốn là một xã hội phong kiến trong hơn 1000 năm,và chịu ách thống trị của thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt Nam mang tính chất thụôc địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt quệ, bộ máy nhà nước cồng kềnh,kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc hậu, đời sống người dân nghèo nàn...Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết xây dựng đất nước theo con đường CNXH mà không phải con đường nào khác? Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận các hình thái kinh tế xã hội nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn. Thực tế hơn 15 năm đổi mới , những thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã hội đã chứng minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu khách quan.

Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác _ Lê Nin để giải thích nguyên nhân của vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường  

Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác _ Lê Nin để giải thích nguyên nhân của vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T040 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Chương I : Phần nội dung I. Quan điểm toàn diện của triết học Mac _ Lê Nin Trong sự tồn tại của thế giới quanh ta, mọi sự vật và hiện tượng đều có mối liên hệ và tác động qua lại với nhau chứ không tách rời nhau, cô lập nhau. Như chúng ta đã biết “ Quan điểm toàn diện” là quan điểm được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn đúng về đối tượng nào đó phải tính đến những mối liên hệ trong sự tồn tại của đối tượng, đề phòng khắc phục quan điểm phiến diện Mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng là mối liên hệ của bản thân thế giới vật chất, không do bất cứ ai quy định và tồn tại độc lập với ý thức. Trên thế giới này có rất nhiều mối liên hệ chẳng hạn như mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng vật chất, giữa cái vật chất và cái tinh thần. Các mối liên hệ đều là sự phản ánh những tác động qua lại, phản ánh sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan. Không chỉ có vậy, các mối liên hệ còn có tính nhiều vẻ ( đa dạng) + Mối liên hệ bên trong và bên ngoài + Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản + Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu + Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp ở thế giới của các mối liên hệ, mối liên hệ bên ngoài tức là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, mối liên hệ bên trong tức là sự tác động qua lại lẫn nhau của các mặt, các yếu tố, các bộ phận bên trong của sự vật. Có mối liên hệ cơ bản thuộc về bản chất của sự vật, đóng vai trò quyết định, còn mối liên hệ không cơ bản chỉ đóng vai trò phụ thuộc, không quan trọng. Đôi khi lại có mối liên hệ chủ yếu hoặc thứ yếu. ở đó còn có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật và hiện tượng, có mối liên hệ gián tiếp trong đó có các sự vật và hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều khâu trung gian. Khi nghiên cứu hiện tượng khách quan, chúng ta có thể phân chia các mối liên hệ ra thành từng loại như trên tuỳ theo tính chất đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, vai trò trực tiếp hay gián tiếp, nghiên cứu sâu hay sơ qua…. Phân chia các mối liên hệ phải phụ thuộc vào việc nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng. Hay nói khác đi, khi xem xét sự vật thì phải có quan điểm toàn diện tức là nhìn nhận sự việc, vấn đề ở mọi góc cạnh, mọi phương diện. Theo Lê _ Nin “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mối quan hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự vật cần thiết phải xét đến tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và cứng nhắc” ( Lê Nin toàn tập – NXB tiến bộ) Khi xem xét sự vật hiện tượng thì luôn phải chú ý đến quan điểm toàn diện tức là khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu mọi mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa chúng, sự tác động qua lại của các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp cấu thành sự vật đó, phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, nghiên cứu quá trình phát triển từ quá khứ, hiện tại và dự đoán cho tương lai. Thế nhưng xem xét toàn diện không có nghĩa là xem xét tràn lan mà phải xem xét từng yếu tố cụ thể nhưng có tính chọn lọc. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. Và cả khi nghiên cứu xã hội thì cũng rất cần đến quan điểm toàn diện vì các mối quan hệ trong xã hội không cô lập nhau, tách rời nhau mà trái lại chúng đan xen tác động qua lại với nhau .

Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay  

Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T039 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá,khu vực hoá nền kinh tế.Tiến trình toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát triển và đang phát triển những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.,Hội nhập quốc tế vừa là cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong công cuộc tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế.Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới.Một trong những yếu kém hiện nay của toàn nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh trên thị trường cả trong nước lẫn nước ngoài.Việc nhìn nhận được những thuận lợi và khó khăn của mình sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích và tìm được lời giải đúng nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Văn hoá kinh doanh dưới cái nhìn triết học  

Văn hoá kinh doanh dưới cái nhìn triết học Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T038 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Văn hoá và kinh doanh là mối quan hệ tác động qua lại nhưng nó dường như tách bạch nhau. Trong một doanh nghiệp ta tưởng chừng nó không liên quan đến nhau nhưng thực chất nó có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển nó có một nội dung hết sức phong phú và đa dạng. Bản thân hoạt động kinh doanh, dưới mỗi hình thức là một hoạt động văn hoá bởi nó đã đáp ứng nhu cầu cần thưởng thức của con người. Yếu tố văn hoá, trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái đẹp, tiện nghi, hiện đại tới mọi người, mọi nhà. Chính cái yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, ngày càng nhiều về số lượng của người tiêu dùng đã kích thích sự sáng tạo sự cố gắng mệt mỏi của các nhà tham gia hoạt động kinh doanh. Yếu tố văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện sự giao lưu văn hoá các vùng miền trong nước mà còn đưa nước ta hội nhập với các nước khác nó có tính toàn cầu. Trong kinh doanh có văn hoá còn thể hiện rõ nét trong mối quan hệ giữa các người làm kinh doanh. Nó còn thể hiện cái tâm là bản chất của vạn hoá của người tham gia kinh doanh. Nó còn chính là thước đo trình độ văn hoá, giáo dục, tình cảm và trách nhiệm của người kinh doanh trước vận mệnh của khácg hàng. Bên thềm thế kỷ 21, Việt Nam đã có rất nhiều doanh nghiệp đã đang và thực hiện đúng điều đó đúng trách nhiệm và lương tâm của một nhà doanh nghiệp. Họ đã được công nhận là hàng Việt Nam chất lượng cao và còn đạt được những danh hiệu do nhà quản lý chất lượng công nhận như ISO 9000, 9001.. Không những họ được người tiêu dùng trong nước chấp nhận mà còn xuất khẩu ra các nước bạn. Điển hình nhỏ như là Công ty thiết bị I " Trung tâm thiết bị đồ chơi mầm non".

Cách nhìn tổng thể về thuyết con người và áp dụng thực tiễn quản lý trong quan hệ con người vào điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam  

Cách nhìn tổng thể về thuyết con người và áp dụng thực tiễn quản lý trong quan hệ con người vào điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T035 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, ruộng đất canh tác bình quân đầu người thấp,tài nguyên khoáng sản tuy đa dạng phong phú, song trữ lượng không lớn như nhiều nước khác, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế, khoa học, kỹ thuật so với các nước phát triển. Vì vậy, nền kinh tế muốn phát triển nhanh, mạnh và bền vững, thì phải phát huy tốt mọi nguồn lực, nhưng quan trọng nhất là phải biết phát huy nguòn lực con nguời. Ngày nay, nhiều nước đang tiến vào làn sóng văn minh mới, với nền sản xuất hiện đại, khoa học, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nhiều nước cách đây mấy chục năm có điểm xuất phát thấp hơn Việt Nam, nhưng họ đã phát triển nhanh chóng nhờ có chiến lược phù hợp, có những chính sách khôn ngoan, năng động. Nhiều quốc gia vốn cùng nghèo về tài nguyên khoáng sản, nhưng nhờ biết phát huy yếu tố con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, nên đã vươn lên đuổi kịp và vượt các nước khác.

Một số vấn để về thực tiễn và lý luận trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam  

Một số vấn để về thực tiễn và lý luận trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T034 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đaịi hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan taam nghiên cứu nó. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào, ở bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế suy đến cùng đếu được bắt đầu vào quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phương thức sản xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nước chỉ là ở mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và trên thực tế chỉ một số ít nước công nghiệp hoá thành công. Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lưoựng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ. Trong cơ cấu xã hội vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dự trên trình độ khoa học kỹ thuạat công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "xã hội văn minh công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị…

Giai cấp công nhân và vai trò của Đảng cộng sản với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội  

Giai cấp công nhân và vai trò của Đảng cộng sản với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T033 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
A.MỞ ĐẦU Trong thời đại xã hội nào, những ng¬ười lao động sản xuất trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những ng¬ười công nhân đều có vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử và là những ng¬ười giữ vai trò quyết định sáng tạo công cụ sản xuất, gía trị thặng dư¬ và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nghiên cứu một cách toàn diện về các quy luật chính trị xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã tập chung nghiên c¬ưú những nguyên tắc căn bản, những điều kiện, con đ¬ường, hình thức, phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện chuyển biến từ chủ nghĩa tư¬ bản sang chủ nghĩa xã hội. Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tr¬ước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô, nhiều ng¬ười đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bọn cơ hội xét lại và các thế lực chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn mới hiện nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa t¬ư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu cực... thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đ¬ược đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.

Thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó  

Thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T032 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.

Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác  

Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T031 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lịch sử Triết học là một phần học trong chương trình môn Triết học Mác - Lênin ở các trường Đại học và Cao đẳng giúp người học nắm được quá trình hình thành phân tích những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, qui luật của tư duy triết học nhân loại, đồng thời nhận thấy rõ sự ra đời của phát triển của triết học Mác - Lênin là một tất yếu hợp qui luật chứ không phải là một trào lưu biệt lập nằm ngoài dòng chảy của văn minh nhân loại. Hạt nhân lí luận trong Triết học Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là những phát sinh lớn nhất của Mác - Ănghen và được Lênin kế tục phát triển, là cơ sở lí luận và kim chỉ nam cho hoạt động của các Đảng Cộng sản. Tuy nhiên không phải Mác - Ănghen xây dựng nên chúng từ mảnh đất không mà phải chọn lựa kế thừa những tư tưởng tiến bộ trong lịch sử phát triển trước đó. Vậy quá trình phát triển của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng diễn ra như thế nào.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T030 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau 1986 nước ta đã chuyển mô hình kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thể hiện sự đổi mới về tư duy và ngày càng hoàn thiện cả về lí luận cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây cũng là một quá trình về sự nhận thức đúng hơn các quy luật khách quan, chuyển từ một nền kinh tế mang nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần, khôi phục các thị trường để từ đó các quy luật thị trường phát huy tác dụng điều tiết hành vi các tác nhân trong nền kinh tế thay cho phương pháp quản lí bằng các công cụ kế hoạch hoá trực tiếp mang tính pháp lệnh, xoá bỏ bao cấp tràn lan của nhà nước để các doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện quản lí nền kinh tế thông qua pháp luật và điều tiết thông qua các chính sách và các công cụ kinh tế vỉ mô Chuyển sang nền kinh tế thị trường là chuyển sang nền kinh tế năng động, có cơ chế điều chỉnh linh hoạt hơn, thúc đẩy sự phân phối, sử dụng các nguồn lực và các tác nhân của nền kinh tế hoạt độmg hiệu quả Mặt khác sự chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề còn mới trong lịch sử kinh tế nước ta. Nên việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường là sự cần thiết.

Phật giáo quá trình hình thành và phát triển  

Phật giáo quá trình hình thành và phát triển Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T029 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO I. Thế giới quan Phật giáo. Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi. 1. Thuyết vô thường. Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức. a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn. b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại - Không. Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không. Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt. Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm, bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn. Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng. Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ --> Xã hội phong kiến --> Xã hội tư bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật. Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật. Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.

Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam  

Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T028 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, bên cạnhđó đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tuỳ từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên, những học thuyết này không được ở vị trí độc tôn mà song song tồn tại với nó vẫn có các học thuyết, tôn giáo khác tác động vào các hu vực khác nhau của đời sống xã hội, đồng thời cũng tác động trở lại các học thuyết chủ đạo. Ngày nay dù đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách mạng trong hệ ý thức, tình hình vẫn như vậy. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảng hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vi vậy, vịc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân..

Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học  

Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T027 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp tư duy trái ngược nhau trong triết học. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hoá phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trong khi đó trái lại, phương pháp biện chứng là: là phương pháp xem xét những sự vật hiện tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng". Trong lịch sử triết học có những thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác - xít của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng duy vật, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể biết, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.

Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, vận dụng thực tiễn  

Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, vận dụng thực tiễn Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T026 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong bối cảnh toàn cầu nói chung môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng đặc biệt là ở các nước đang phát triển . Việt Nam cũng nằm trong tình trạng này trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế. Do vậy , bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề quan trọng được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm trong chiến lược phát triển chung về kinh tế xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước . Để có một sự phát triển bền vững cần phải có một chương trình hành động thống nhất và có thể bổ sung hỗ trợ lẫn nhau giữa phát triển sản xuất với công tác bảo vệ và kiểm soát môi trường . Nếu không có một chính sách đúng đắn về bảo vệ môi trường , nền kinh tế sẽ bị thiệt hại trước mắt cũng như lâu dài. Đồng thời sự phát triển của đất nước cũng thiếu bền vững . Nhất là trong những năm gần đây do nền kinh tế phát triển nước ta đang đi lên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đã đẩy mạnh quá trình đô thị hoá dẫn đến tình trạng môi trường đô thị ngày càng ô nhiễm . Do vậy trong khuôn khổ bài tiểu luận triết học này em xin dựa vào cặp phạm trù triết học nguyên nhân - kết quả để đề cập đến một số vấn đề bức xúc của ô nhiễm môi trường đô thị và một số biện pháp khắc phục sự ô nhiễm môi trường đô thị .

Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích Nhà máy Phích nước – Bóng đèn Rạng đông  

Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích Nhà máy Phích nước – Bóng đèn Rạng đông Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T025 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
T rong suốt chiều dài của nước ta – Việt Nam đã trải qua các Phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao : “công xã nguyên thuỷ, Phong kiến, phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa”. Những Phương thức sản xuất đó luôn luôn vận động và có xu hướng bị đào thải, trong mỗi giai đoạn phát triển của nước ta và dẫn tới sự ra đời một Phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.Hiện nay khi đất nước bước vào cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đất nước ta đang từng ngày từng giờ bắt kịp với nhịp độ của Khu vực và thế giới. Nhưng dư âm của Phương thức sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại và đang hiện hữu trong các Thành phần mà đặc biệt là kinh tế Nhà nước. Đã và đang làm cản trở và kìm hãm sự phát triển của Thành phần Kinh tế đó nói riêng và nền Kinh tế Nhà nước nói chung.bởi vậy trước tình hình đó bắt buộc bất kỳ thành phần Kinh tế nào đều phải vận động không ngừng để tồn tại và có đủ sức cạnh tranh , nhất là khi Việt Nam đang ra nhập khối mậu dịch tự do APTA hiện nay. Để tồn tại không còn cách nào khác là phải biết vận dụng lý luận phương thức sản xuất vào thực tế nền sản xuất của Doanh nghiệp mình cho phù hợp. Chính vì vậy mà đã có một Doanh nghiệp là Nhà máy Phích nước – Bóng đèn Rạng Đông đã nhanh chóng lắm bắt được cơ chế thị trường và tất yếu phải đổi mới Phương thức sản xuất cũ, thay bằng Phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. do đó đã đảo ngược tình thế, đưa Nhà máy thoát khỏi đóng cửa , không những thế còn đưa Nhà máy phát triển lớn mạnh.

Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó  

Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T024 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp. Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới. Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học

Vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến vào phân tích mối liên hệ giữa nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kịnh tế quốc tế  

Vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến vào phân tích mối liên hệ giữa nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kịnh tế quốc tế Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T023 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá hiện nay, các quốc gia trên thế giới ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau. Vì thế nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược lại xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu, trái lại mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước, mỗi quốc gia. Đứng trước yêu cầu ngày càng cấp bách đó, Đại hội Đảng IX đã đưa ra văn kiện về vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh hiện nay đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau nhằm phát triển nền kinh tế nước ta ngày càng vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tri thức và nền kinh tế tri thức  

Tri thức và nền kinh tế tri thức Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T022 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại tin học.... Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới. Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức.

Sinh viên và thất nghiệp  

Sinh viên và thất nghiệp Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T021 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ ngày đất nước ta có sự đổi mới về kinh tế , chuyển từ kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường nhiều thành phần, tự do hoạch động và hạch toán nên đất nước cũng có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu về kinh tế cũng như xã hội. Nhưng xét đến tính hai mặt của vấn đề thì cơ chế thị trường bên cạnh những mặt được thì cũng còn những mặt chưa được : Một trong những mặt chưa được đó là những mặt đó là tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng, vấn đề xã hội mà gần như không có trong nền kinh tế bao cấp. Đất nước muốn phát triển thì phải đi lên từ lao động, mà sinh viên là lực lượng lao động trẻ, năng động, dồi dào và được đào tạo. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cần được sử dụng một cách hợp lý hiệu quả. Tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Vấn đề này nguyên nhân do đâu, phải chăng là: - Trình độ của sinh viên không đáp ứng được yêu cầu ngày một cao của công việc, do chất lượng đào tạo thấp của các trường đại học,cao đẳng ? - Do lượng cung lớn hơn cầu về nguồn lao động ? - Do chính sách của nhà nước chưa hợp lý trong việc sử dụng lao động ? - Do sự chủ quan của sinh viên không muốn công tác tại những vùng xa, khó khăn ? Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có một quan điểm khác nhau. Điều này xảy ra là vì về mặt nhận thức chủ thể chưa nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn ở một phía nhất định.

Những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta  

Những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T020 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
F. Enghen đã khẳng định: “Không có cơ sở văn minh Hi Lạp và đế quốc La Mã thì tuyệt nhiên không có Châu Âu hiện đại”. Vậy học tập Enghen chúng ta có thể đặt vấn đề: “Nếu không có văn minh cổ đại Trung Quốc thì không có nước Việt Nam ngày nay”. Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn. Biết bao nhiêu hệ tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ thuyết âm dương ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử, Lão tử... Thế nhưng trong các học thuyết ấy, không ai có thể chối cãi được rằng học thuyết Nho gia. Nhà người phát khởi phát là Khổng tử là có vị trí quan trọng hơn hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng. Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ ràng: Nho giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao nó có thể có sức sống mạnh mẽ đến như vậy. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, rất nhiều người đã phê phán đạo Nho, tố cáo tính chất bảo thủ, phi khoa học của nó. Nhưng nếu lấy quan điểm lịch sử mà xem xét, ở thế kỷ XX rõ ràng Nho giáo là cổ hủ nhưng ở giai đoạn trước có vậy không. Vào thế kỷ X trên bán đảo Đông Dương có 3 vương quốc: Đại Việt, Cham Pa, Khmer, lực lượng ngang nhau. Dần dần Đại Việt chiếm ưu thế, vừa đủ sức chống lại phong kiến phương Bắc, vừa khai hoang Nam Tiến, át hẳn 2 vương quốc kia. Phải chăng đạo Nho đã đóng một vai nhất định trong sự hình thành tương quan lực lượng ấy. Phải chăng chúng ta đã du nhập đạo Nho của Trung Quốc rồi sau đó biến thành một công cụ chống laị. Biện chứng lịch sử là như thế. Nho giáo là công cụ để phong kiến phương Bắc dùng để lệ thuộc các dân tộc khác, nhưng vừa là công cụ giúp các dân tộc chống lại Trung Quốc.

Tín dụng: cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam  

Tín dụng: cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T019 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, muốn vậy cần có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao. Trong đó nhu cầu về vốn là hết sức cần thiết, được coi là yếu tố hàng đầu, là tiền đề phát triển kinh tế.Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của đảng đã đề ra: “để công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước cần huy động nhiều nguồn vốn sẵn có với sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định nguồn vốn bên ngoài là quan trọng...”. Tín dụng ra đời rất sớm, ra đời khi xã hội bắt đầu có sự phân công lao động xã hội và chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tín dụng đã tồn tại và phát triển ở nhiều nền kinh tế với các mức độ phát triển khác nhau. Đặc biệt hiện nay trong nền kinh tế thị trường, nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, cùng với sự tồn tại các mối quan hệ cung- cầu về hàng hoá, vật tư, sức lao động thì quan hệ cung cầu về tiền vốn đã xuất hiện và ngày một phát triển như một đòi hỏi cần thiết khách quan của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và đầu tư. Nhà nước đã sử dụng tín dụng như một công cụ quan trọng trong hệ thống các đòn bẫy kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam  

Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T018 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ cuối năm 1960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9- 1960) của Đảng lao động Việt Nam đã quyết nghị “ Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn còn tiếp tục. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh và điều kiện: - Trong suốt thời gian tiến hành công nghiệp hóa, tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến rất sôi động, phức tạp và không thuận chiều. Bắt đầu công nghiệp hóa được bốn năm thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng; miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài năm thì kẻ thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết thúc lại kéo theo cấm vận của Mỹ. - Nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, phát triển nhanh không thua kém nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có uy tín trên thế giới đã tạo ra hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho công nghiệp hóa ở nước ta, thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc tế lại gây bất lợi cho quá trình công nghiệp hóa ở nước ta. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa của thế giới( 1973) các nước xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công nghệ chậm hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa, hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường quốc tế giảm, cộng các sai lầm khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, làm mất đi thị trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ từ các nước này( ước tính 1 năm 1 tỷ đô la, chiếm 7% GDP ). Công nghiệp hóa ở nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh tế- xã hội, về phát triển lực lượng sản xuất và từ trạng thái không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất.

Vấn đề thất nghiệp và việc làm ở Việt Nam  

Vấn đề thất nghiệp và việc làm ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T017 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sự biến động của tỷ lệ thất nghiệp từ năm 1986 đến năm 1996, các nguyên nhân làm tăng hay giảm tỷ lệ thất nghiệp, trong từng giai đoạn kể trên: Số người tăng thêm trong lực lượng lao động hàng năm và số người được giải quyết việc làm hàng năm. Các chính sách giải quyết việc làm của nhà nước ta từ năm 1986 đến nay “đặc điểm của thời kỳ đưa ra chính sách đó, mục tiêu của chính sách, kết quả đạt được, những vấn đề chưa đạt được”. Tình hình việc làm của người lao động Việt nam hiện nay, phương hướng giải quyết việc làm của Nhà nước, phương hướng giải quyết việc làm của Nhà nước trong thời gian tới. Đề tài nghiên cứu này nhằm mục đích đưa ra nhận thức đúng đắn và sự vận dụng có hiệu quả những vần đề nêu trên. Từ đó có thể nêu lên được cơ sở lý luận để xây dựng mà hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn vấn đề này giúp ta giải quyết được những thực trạng này được là sự giảm sút to lớn về mặt sản lượng và đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát cao. Đồng thời nó còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội. Bởi vì thất nghiệp tăng số người không có công ăn việc làm nhiều hơn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, trộm cắp...làm xói mòn nếp sống lành mạnh, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống, gây tốn thương về mặt tâm lý và niềm tin của nhiều người.

Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay  

Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T016 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.

Quan hệ lượng - chất, nhân - quả và thực trạng kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá  

Quan hệ lượng - chất, nhân - quả và thực trạng kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T015 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc gia. Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, môi trường... Do có vai trò quan trọng như vậy nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hưởng đến sự phát triển chung của một quốc gia. Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và gần đây hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được thông qua tạo thêm nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế ở nước ta nhưng đồng thời đây cũng là một thách thức lớn đối với nền kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển như nước ta ,vì hiện nay có thể nói công nghệ và kỹ thuật của ta còn đi chậm hơn so với thế giới và chúng ta buộc phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất, quản lý , đầu tư đúng hướng ...

Cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường  

Cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T013 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái kinh tế và luôn gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Nếu ngừng lao động sản xuất ra của cải vật chất thì sự sống trên toàn cầu bị huỷ diệt.Bên cạnh đó sản xuất vật chất còn là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần cuả hội .Qua đó ta thấy được tầm quan trong to lơn của kinh tế trong sụ tồn tại và phát triển của xã hội bởi vì kinh tế chinh là kết quả của quá trình lao động sản suất của cải ,vật chất. Không vượt khỏi quy luật khach quan, nền kinh tế nước ta cũng là nên tảng cho sự tồn tại và phát triển của đất nước ta . Tháng 12 năm 1986, đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp và đề ra đường lối đổi mới kinh tế. Đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hơn 10 năm qua, việc chuyển đổi kinh tế luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của xã hội .

Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T012 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển. Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế. Do vậy, nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta, đặc biệt là sinh viên khối kinh tế, có thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới; hiểu được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam  

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T011 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Chúng ta đang sống trong một mạng lưới sụ sống rộng lớn. Giống như một mạng nhện, càng có nhiều mối liên hệ thì mạng lưới càng bền vững. Chúng ta đã biết tất cả những mối liên kết trong sự sống sẽ không tồn tại và phát triển được nếu không được hỗ trợ bởi môi trường. Với tốc độ phá hoại môi trường như hiện nay của con người, môi trường của chúng ta đang dần bị suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới sự sống đang dần bị phá vỡ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên. Cũng như các nước đang phát triển khác, để có những kết quả về kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi ssự bền vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Một thập kỷ phát triển nhanh chóng ở việt nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất, không khí, nước và quan trọng hơn là gia tăng mưc tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo… mạng lưới đang dần mất đi sưc mạnh của nó. Chính vì vậy tôi quyết chọn đề tài này để nghiên cứu.

Máy móc đại Công nghiệp, vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam  

Máy móc đại Công nghiệp, vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T010 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
TBCN là một chế độ xã hội mà ở đó nề kinh tế phát triển rất cao gắn liền với sự phát triển của lĩnh vực Công nghiệp. Khi phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư tương đối Mác khái quát sự phát triển của lịch sử phát triển của TBCN trong Công nghiệp thành 3 giai đoạn: hiệp tác giản đơn TBCN, công trường thủ công trườngthủ công TBCN và đại Công nghiệp cơ khí. đây là 3 giai đoạn nâng cao năng xuất lao động và là quá trình phát triển của TBCN từ thấp lên cao. Nghiên cứu 3 giai đoạn phát triển của TBCN trong Công nghiệp còn gợi cho ta những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn về quá trình phát triển, chuyển biến của nền sản xuất TBCN. Nếu hiệp tác giản đơn là một bước tiến về tổ chức sản xuất công trường thủ công tạo đIều kiện cho sự ra đời của đại Công nghiệp cơ khí thì giai đoạn đại Công nghiệp là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của phương thức TBCN không những ở những nước phát triển mà cả ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam

Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T009 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳn hạn như cung cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồ tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn nay mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thanh…. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. đỏi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam  

Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T008 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.

Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay  

Lý luận nhận thức, vận dụng quan điểm đó vào nền kinh tế Việt Nam trước và sau mười năm đổi mới đến nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T007 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người  

Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T006 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người. Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.

Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước  

Lý luận của chủ nghĩa Mác về con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T005 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người. Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.

Công pháp và tư pháp trong hiến pháp tư bản chủ nghĩa  

Công pháp và tư pháp trong hiến pháp tư bản chủ nghĩa Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T003 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cuộc cách mạng tư sản đã mở đầu lịch sử thế giới cận đại bằng hàng loạt các cuộc cách mạng lớn như ở Anh, Pháp, Hoa kì … và có ảnh hưởng lớn đến tiến trình lịch sử của thế giới. Sự ra đời nhà nước tư sản là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển phương thức tư bản chủ nghĩa và song song với nó là sự ra đời của pháp luật tư sản. Có thể nói sự ra đời của pháp luật tư sản đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của lịch sử nhân loại. Từ đây loài người được biết đến một bản hiến pháp, trong đó quy định những quyền và tự do của công dân mà trước đây chưa bao giờ dám nghĩ đến. Rất nhiều tư tưởng tiến bộ xuất phát từ những ngày đầu hình thành nên pháp luật tư sản vẫn còn giữ nguyên giá trị và không ngừng thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trong xã hội hiện đại và phát triển ngày nay, chúng ta sẽ tiếp tục phát huy những mặt mạnh và loại trừ nhưng mặt yếu của nó, góp phần làm nên một thế giới hoà bình, sự phát triển bền vững và đảm bảo “mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tự do và mưu cầu hạnh phúc…” như trong bản hiến pháp nước Mỹ năm 1787.

Một số vấn đề về đấu tranh giai cấp  

Một số vấn đề về đấu tranh giai cấp Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T002 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột. Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.

Bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở  

Bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T001 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước , nền văn hoá Việt Nam đã hình thành và phát triển . Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ , kiên cường , nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn vản sắc của dân tộc , chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam . Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước . Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ , dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình , chẳng những không bị đồng hoá , mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho dân tộc , lấy sức ta mà giải phóng cho ta . Phát huy truyền thống văn hoá dân tộc , dưới sự lãnh đạo của Đảng , là nhân lên sức mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn , thử thách , xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội , giữ vững quốc phòng , an ninh , mở rộng quan hệ đối ngoại , tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta đI vào thế kỷ XXI . Công cuộc đổi mới toàn diện , đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước , xây dựng chủ nghĩa xã hội , thực hiện thắng lợi mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh” , đòi hỏi chúng ta phảI xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc , xây dựng nền tảng tinh thần của dân tộc ta , coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội . Đảng và Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một nền kinh tế mở ,hội nhập với Thế giới . Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại biến chuyển nhanh chóng , đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá , sự hội nhập khu vực và thế giới với một tốc độ rất nhanh , từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng giao lưu giữa các nền văn hoá . Trong khi chú trọng giữ gìn , phát huy các truyền thống văn hoá tinh thần tốt đẹp của dân tộc , văn hóa Việt Nam cần từng bước mở rộng giao lưu quốc tế , tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới và thời đại . Nền văn của chúng ta sẽ đa dạng hơn , phong phú hơn , tiên tiến hơn nhờ hấp thụ được những yếu tố lành mạnh của văn hoá thế giới .

Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta  

Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC199 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó những kiến thức,khái niệm ,phạm trù ,quy luật ..của kinh tế chính rị đưa ra là cực kỳ cần thiết cho việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Là một sinh viên được học tập và rèn luyện dưới mái trường Kinh tế được các thầy cô dạy bảo và truyền đạt những kiến thức cơ bản về bộ môn kinh tế chính trị. Nhưng để có cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt các môn kinh tế khoa học khác vì các môn này đều phải dựa vào các kiến thức, các phạm trù kinh tế và các quy luật mà kinh tế chính trị Mac-Lênin đưa ra thì nhất thiết phải làm tiểu luận môn kinh tế chính trị,mặt khác nó còn giúp em nhận thức sâu sắc hơn về những vấn đề kinh tế ,đời sống xã hội…. Quy luật giá trị là một quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát phát huy tác dụng của quy luật giá trị .

Tác động cơ bản của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường. Thực trạng nền kinh tế nước ta và các giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.  

Tác động cơ bản của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường. Thực trạng nền kinh tế nước ta và các giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC197 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì nước Việt Nam ta còn là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển, nghèo nàn và lạc hậu. Cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển... hơn nữa nạn thất nghiệp, tham ô lạm phạt, ô nhiễm môi trường... vẫn luôn là một trong những vấn đề bức xúc chưa hạn chế được. Tuy vậy ta cũng không thể một sớm một chiều mà có thể khắc phục được những yếu điểm đó mà ta phải dần dần khắc phục. Song hành với nó ta phải liên tục vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và kinh tế để phát triển đất nước. Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn lớn về mọi mặt nhất là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cần phải áp dụng những biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả nhất. Chính vì vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển kinh tế là rất quan trọng. Chúng ta cần phải thật linh hoạt trong từng vấn đề, từng lĩnh vực của sự phát triển kinh tế.

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước  

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC196 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80 của thế kỷ XX , khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này . Trước tình hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986). Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường , nước ta không tránh khỏi những khó khăn . Theo quan đIển triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn . Trong giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung , quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường… Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta .

Một số vấn đề quản lý nhà nước về kinh tế  

Một số vấn đề quản lý nhà nước về kinh tế Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC194 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Bài làm 1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế : Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế dược thực hiện thông qua cả ba loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ). 2. Quản lý Nhà nước về kinh tế vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp : a) Quản lý Nhà nước về kinh tế là một khoa học vì nó có đối tượng nghiên cứu riêng và có nhiệm vụ phải thực hiện riêng. Đó là các quy luật và các vấn đề mang tính quy luật của các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giưã các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế của xã hội. Tính khoa học của quản lý Nhà nước về kinh tế có nghĩa là hoạt động quản lý của Nhà nước trên thực tế không thể phụ thuộc vào ý chí chủ quan hay sở thích của một cơ quan Nhà nước hay cá nhân nào mà phải dựa vào các nguyên tắc, các phương pháp, xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, tức là xuất phát từ các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Để quản lý Nhà nước mang tính khoa học cần : - Tích cực nhận thức các quy luật khách quan, tổng kết thực tiễn để đề ra nguyên lý cho lĩnh vực hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế. - Tổng kết kinh nghiệm, những mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước trên thế giới. - Áp dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, sự đánh giá khách quan các quá trình kinh tế. - Nghiên cứu toàn diện đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế, không chỉ giới hạn ở mặt kinh tế - kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt xã hội và tâm lý tức là phải giải quyết tốt vấn đề thực chất và bản chất của quản lý. b) Quản lý Nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và là một nghề vì nó lệ thuộc không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý; khả năng thích nghi cao hay thấp v.v... của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. Tính nghệ thuật của quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện ở việc xử lý linh hoạt các tình huống phong phú trong thực tiễn kinh tế trên cơ sở các nguyên lý khoa học. Bản thân khoa học không thể đua ra câu trả lời cho mọi tình huống trong hoạt động thực tiễn. Nó chỉ có thể đưa ra các nguyên lý khoa học là cơ sở cho các hoạt động quản lý thực tế. Còn vận dụng những nguyên lý này vào thực tiễn cuộc sống phụ thuộc nhiều vào kiến thức, ý chí và tài năng của các nhà quản lý kinh tế. Kết quả của nghệ thuật quản lý là đưa ra quyết định quản lý hợp lý tối ưu nhất cho một tình huống quản lsy. Quản lý Nhà nước về kinh tế là một nghề nghiệp với bộ máy là hệ thống tổ chức bao gồm nhiều người, nhiều cơ quan, nhiều bộ phận có những chức năng quyền hạn khác nhau nhằm đảm bảo tổ chức và quản lý có hiệu quả các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước. Những người làm việc trong các cơ quan đó đều phải được qua đào tạo như một nghề nghiệp để có đủ tri thức, kỹ năng năng lực làm công tác quản lý các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước. 3. Các phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế : Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân ( tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế ...). Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã định. Những nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh tế. Các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, đó là vấn đề cần phải đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý kinh tế thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước. Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm : 3.1 Các phương pháp hành chính : Các phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp bằng các quyết đinhj dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình huống nhất định. Phương pháp này có hai đặc điểm cơ bản là : - Tính bắt buộc : các đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tacs động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng. - Tính quyền lực : các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của mình. Vai trò của các phương pháp hành chính là xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống; khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; có thể giấu được ý đồ hoạt động và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng. Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nằm vững những yêu cầu chặt chẽ sau : - Quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế. - Khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không sử dụng những quyền hạn được phép.

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và các loại hình sở hữu ở nước ta  

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và các loại hình sở hữu ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC192 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo nên tính đa dạng của nền kinh tế nhiền thành phần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần là hai hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia.

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và các loại hình sở hữu ở nước ta  

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và các loại hình sở hữu ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC192 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo nên tính đa dạng của nền kinh tế nhiền thành phần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần là hai hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia.

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở nước ta hiện nay  

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC191 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo nên tính đa dạng của nền kinh tế nhiền thành phần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần là hai hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia.

Những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội  

Những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC189 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IX chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới thời kỳ “đầy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ” định hướng phát triển nhằm mục tiêu “xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương tiện để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc xây dựng này tốt hay không. Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời đại ngày nay trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó. Do vậy vấn đề quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà chúng ta cần phải quan tâm và giải quyết. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất và ngược lại, có thể thúc đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vấn đề này từng là bài học đắt giá trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tác động trở lại của các yếu tố của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất khá phong phú và phức tạp, nhất là trong những điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay.

Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thực trạng và giải pháp  

Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thực trạng và giải pháp Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC188 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lịch sử phát triển của sản xuất loài người là lịch sử phát triển của các PTSX kế tiếp nhau. PTSX là sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX đó là cách thức sản xuất ra của cảI vật chất mà trong đó LLSX đạt đến một trình độ nhất định , thống nhất với QHSX tương ứng với nó . Theo định nghĩa của phép biện chứng duy vật : Là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, khoa học về những quy luật phổ biến nhất của sự vận động và sự phát triến cuả tự nhiên ,xã hội và tư duy trên cơ sở duy vật . Theo định nghĩa trên xã hội ngày càng phát triển thì mối quân hẹ giữa QHSX va LLSX là không thể tách rời , đây là quy luật chung của sự phát triển và là một trong những quy luật quan trọng quy định sự tồn tại, phát triển và tiến bộ xã hội. Mặc dù vậy trong thực tế, hai nhân tố QHSX và LLSX đã làm nảy sinh những mâu thuẫn giữa chúng . Và sự mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt làm cho nền kinh tế nước ta ở trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng trong một thời gian dài

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức, vận dụng quy luật này ở Việt Nam  

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức, vận dụng quy luật này ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC187 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ khi con người mới xuất hiện trên hành tinh đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian tư duy của con người càng phát triển càng hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như cơ sở sản xuất. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu thì ngày nay trình độ khoa học đạt tới mức tột đỉnh. Không ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đổ sức bỏ công cho các vấn đề này cụ thể là nhận thức con người, trong đó có trường phái triết học. Với ba trường phái trong lịch sử phát triển của mình chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trường phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được mác và Ănghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Từ những lý luận trên đưa Mác - Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Không chỉ trên phương diện triết học mà cả chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì nhận thức của hai ông về qui luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội  

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC186 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IX chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới thời kỳ “đầy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ” định hướng phát triển nhằm mục tiêu “xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương tiện để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc xây dựng này tốt hay không. Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thời đại ngày nay trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó. Do vậy vấn đề quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà chúng ta cần phải quan tâm và giải quyết. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất và ngược lại, có thể thúc đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vấn đề này từng là bài học đắt giá trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự tác động trở lại của các yếu tố của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất khá phong phú và phức tạp, nhất là trong những điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay.

Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay  

Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC185 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mô hình sản xuất nào thì cũng cần có sự phối hợp giữa các hình thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Phân phối luôn thể hiện một vị trí hết sức quan trọng. Nó phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay không tốt lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân. Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối nối liền sản xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng tiêu dùng ,dịch vụ thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị trương diễn ra thông suốt. Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao động ,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như các tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế ¬- xã hội ở nước tađang đòi hỏi có sư nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quan hệ phân phối ở việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách .

Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện quan hệ phân phối trong thời gian tới ở nước ta.  

Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện quan hệ phân phối trong thời gian tới ở nước ta. Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC183 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào thì phân phối cũng là khâu không thể thiếu. Nếu có hình thức phân phối phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Do đó với mỗi xã hội khác nhau, có một phương thức phân phối khác nhau. Mỗi xã hội đều luôn vận động phát triển do đó sau một thời gian khi lực lượng sản xuất phát triển đưa xã hội chuyển lên một hình thái kinh tế - xã hội mới thì lúc đó hình thức phân phối cũ sẽ được thay thế bằng hình thức phân phối mới phù hợp hơn. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, thì vai trò của phân phối càng trở nên quan trọng. Phân phối đúng đắn sẽ tạo ra cơ hội tận dụng mọi nguồn lực trong xã hội. Do đó phân phối có vai trò động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội, tạo nên sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế và góp phần thực hiện công bằng xã hội. Đề án nghiên cứu về quy luật phân phối ở nước ta. Trong đó có nêu lên một số tình trạng thực tế trong đó có những hạn chế và giải pháp khắc phục.

Vận dụng lí luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng  

Vận dụng lí luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC181 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển nông nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt Nam một quốc gia lạc hậu, 80% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển nông nghiệp nông thôn.

Vận dụng lí luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng  

Vận dụng lí luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC181 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nông thôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, phát triển nông nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt Nam một quốc gia lạc hậu, 80% dân số sống ở khu vực nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển nông nghiệp nông thôn.

Nguyên nhân suy thoái kinh tế Nhật những năm 90  

Nguyên nhân suy thoái kinh tế Nhật những năm 90 Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC180 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Không chỉ là nước có nền văn hoá tiến bộ mà Nhật Bản còn là một nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới chỉ sau Mỹ. Có được những thành quả như vậy cũng bởi Nhật Bản là quốc đảo,bao bọc bởi vô vàn hòn đảo lớn, nhỏ do vậy đã tạo cho con người Nhật Bản một ý chí rất ham học hỏi và muốn vươn lên. Tuy là một nước nghèo tài nguyên nhưng Nhật Bản không phải dựa vào tài nguyên dồi dào như các nước khác để làm giàu mà Nhật Bản làm giàu bằng chính bộ óc sáng tạo và đôi bàn tay cần cù của mình. Trong hai cuộc chiến trành thế giới Nhật Bản là nước đi xâm chiếm thuộc địa, muốn thống trị và vơ vét của cải. Nhưng sau chiến tranh thế giới thứ hai thì Nhật Bản bị thiệt hại nặng nề, nhất là về kinh tế, nhưng sau đó Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của mình và ngày càng phát triển vời tốc độ tăng trưởng thần kỳ. Nhưng đến thập niên 90 nền kinh tế của Nhật Bản bị suy thoái trầm trọng, thậm chí khủng hoảng nặng nề, cụ thể: Năm 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 GDP (%) 4.6 4.7 4.9 5.5 2.9 0.4 0.3 0.6 1.4 2.9 -0.7 -1.9 0.5 1.2 Nguồn: 1987-1997 Nikkei Shimbun và Japan Research Quaterly, Spring 1997 và Winter 1996/1997_1998-2000: Monthly Economic Report, October 2000 ( số liệu 2000 là dự báo) EPA, Japan.

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta  

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC179 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đang là một đất nước có được nhiều sự chú ý từ các nước trên thế giới. Đó là đất nước Việt Nam đã và đang trên con đường đổi mới một cách toàn diện và ngày càng sâu sắc về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặtđó của đời sống xã hội được khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen - quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tình phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.

Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Thực trạng và một số giải pháp cơ bản  

Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta - Thực trạng và một số giải pháp cơ bản Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC177 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, loài người không ngừng tìm kiếm những mô hình thể chế kinh tế thích hợp đề đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một trong những mô hình thể chế kinh tế như thế là mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế thị trường là nấc thang phát triển cao hơn kinh tế hàng hoá, khi mà các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được thực hiện thông qua thị trường. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Hơn nữa, những nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm được ưu thế trên thị trường phải năng động, nhạy bén, không ngừng cải tiến kỹ thuật và hoịp lý hoá sản xuất. Từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô lớn sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế ở trong nước và nước ngoài, hội nhập nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh tranh hạn chế. Trong khi đó, thị trường thế giới và khu vực đã được phân chia bởi hầu hết các nhà sản xuất và phân phối lớn. Ngay cả thị trường nội địa cùng chịu sự phân chia này. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mới, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.

Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay  

Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC176 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi căn bản, sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Kinh tế quốc doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng được đổi mới. Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả về nhận thức lý luận và thực tiễn. Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước thì khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành doanh nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý

Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế  

Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC175 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mười năm nỗ lực phấn đấu, nhất là 5 năm qua, nhân dân ta đã tạo nên những đổi mới kinh tế quan trọng. Trong khi nhịp độ tăng trưởng nhanh và vượt mức kế hoạch thì cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Và một trong những nguyên nhân để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế là nước ta bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần chính là để giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Không thể có các thành tựu kinh tế như vừa qua nếu không thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Vì thế phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp của bên ngoài là chiến lược đúng đắn.

Những vấn đề về kinh tế thị trường ở Việt Nam  

Những vấn đề về kinh tế thị trường ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC174 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mỗi một con người Việt Nam đều có một lòng tự hào về dân tộc rất mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người, chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông nghiệp 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống 1,5%...Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc phục được những khó khăn trước mắt. Những tưởng đó là con đường đúng đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc họp lần thứ VI của Đảng, quốc hội quyết định chuyển hướng nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phải chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ của đề án này tôi xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà tuổi trẻ cần làm để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước trong thời gian tới  

Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước trong thời gian tới Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC173 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong nền kinh tế thị trường phân phối thu nhập giữ một vai trò hễt sức quan trọng. Nó là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Phân phối thu nhập nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ với thị trường các yếu tố sản xuất làm cho sự vận động của cơ chế thị trường diễn ra thông suốt. Một xã hội muốn ổn định và phát triển thì cần đảm bảo được những lợi ích của cá nhân trong xã hội, trong đó phân phối đảm nhận vai trò phân chia lợ ích cho từng cá nhân. Giải quyết vấn đề phân phối thu nhập có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Thực tiễn ở Việt Nam đã chỉ rõ, trong quá trình đi tới ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, trước hết chúng ta phải cải cách lưu thông, phân phối. Nhờ tháo gỡ những ách tắc trong lĩnh vực này mà nền kinh tế nướ ta đã và đang dần thoát khỏi tìng trạng khủng hoảng, lạm phát từng bước có sự tăng trưởng phát triển.Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN thì hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương, lợi nhuận, lợi tức ... đã nảy sinh, đòi hỏi phải có những cải cách thường xuyên, liên tục để phù hợp với những nguyên lý kinh tế kinh tế thị trường cũng như những đòi hỏi cấp thiết của xã hội đang đặt ra. Vì vậy việc nghiên cứu quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cấp thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Hơn thế nữa, trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ ở nớc ta, do nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế vận động trong cơ chế thị trường nên cũng có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế. Việc phát hiện và giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện qua phân phối. Do đó việc nghiên cứu quan hệ phân phối được xem là chìa khoá để tháo gỡ cho các vấn đề liên quan đến việc phân chia các lợi ích trong xã hội. Xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của phân phối trong xã hội. Bài luận này với mục đích nghiên cứu quan hệ phân phối ở Việt Nam trong những năm vừa qua từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ ở nước ta ta thời gian tới, đã thể hiện rõ quan điểm của cá nhân em trong quá trình nghiên cứu quan hệ phân phối. Hy vọng rằng nó sẽ góp phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta nhằm đạt được mục tiêu ‘’ Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,,.(1)

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó  

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC172 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Năm 1986 trở về truớc nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp. Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới nền kinh tế. Tại đại hội VI (tháng 12/1986) của đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cấp tràn lan và tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị truờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương hết sức quan trọng của giai đoạn này là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đó. Qua mười năm đổi mới chúng ta đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của đảng và nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm do trong nền kinh tế đó còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn khác nhau. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh Tế nước ta phát triển theo định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó.

Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá  

Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC171 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ cùng với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực đã góp phần thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hoá không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà còn cả trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế đã và đang mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho các dân tộc trên thế giới khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình để tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách thức gay gắt, nhất là đối với các nước đang phát triển. Vì thế để không bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng cường sức cạnh tranh kinh tế . Hơn lúc nào hết quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta. Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng. Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta  

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC170 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trước hết cần khẳng định nước ta lựa chọn phát triển kinh tế thị trường(KTTT) là tất yếu, là sự lựa chọn đúng đắn, nó khồng chỉ tồn tạI khách quan mà còn cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chu nghĩa (XHCN). Nhưng không như các nước tư bản chủ nghĩa(TBCN), với nước ta việc phát triển KTTT có những đặc trưng riêng biệt:vừa đòi hỏi phát triển kinh tế, vừa phải giữ vững định hướng XHCN. KTTT tuy có nhiều ưu điểm, nhưng không phải tuyệt đối, nó còn có những khuyết tật mà nếu ta cứ để cho nó tự do phát triển thì đến một lúc nào đó nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng rất nguy hiểm và có thể phải trả giá đắt. Vì vậy, Đảng ta đã xác định phát triển KTTT là đúng đắn, nhưng phải có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình đất nước cũng như định hướng của nước ta. Với vốn hiểu biết còn hạn chế, em mong rằng thông qua đề tài này tìm hiểu thêm về nền kinh tế nước ta cũng như đường lối chính sách của Đảng qua một số nội dung sau: Phát triển KTTT định hướng XHCN là tất yếu khách quan. Những đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Thực trạng và những giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Hoàn cảnh cải cách tiến hành ở Trung Quốc và Việt Nam  

Hoàn cảnh cải cách tiến hành ở Trung Quốc và Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC168 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một quốc gia Xã hội chủ nghĩa trì trệ trở thành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đại. Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều năm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế quốc thực dân cùng với các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho đất nước bị tàn phá nặng nề. Ngay sau khi thành lập nước chúng ta đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, cũng thực hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đến việc theo dõi cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho Việt Nam. Có người cho rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở Trung Quốc, thậm chí cho rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên nếu xem xét kĩ thì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế và mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có nhiều điểm rất khác nhau. Tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt này sẽ giúp cho ta thấy được những gì có thể tham khảo, những gì không thể hoặc không nên tham khảo từ cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối chính sách phù hợp, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn đất nước nói chung.

Vai trò và động lực của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta  

Vai trò và động lực của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC167 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các Đảng va Nhà Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.Ở Việt Nam,từ sau những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nước. Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vượt bậc.Từ một nước nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các khoản viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân được cải thiện vv...Có được sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới trong nhận thức,tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới trong nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự đánh giá lại vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng .Đảng và Nhà Nước ta đã khẳng định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đưa Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây dựng thành công CNXH. Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận trong việc phát triển nền kinh tế là như thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến bây giờ mới được đặt ra mà từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước Mác cho đến những trường phái lý luận ngày nay,mỗi trường phái đều có những luận điểm,học thuyết của mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm đó,học thuyết của Chủ Nghĩa Mác(CN Mác),được xây dựng trên nền tảng lý luận giá trị thặng dư(GTTD),đã giải thích được một cách đầy đủ,chính xác và khoa học nhất về nguồc gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học thuyết của CN Mác nói chung và những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng đã được Đảng ta coi là cơ sở lý luận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam  

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC166 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo nên tính đa dạng của nền kinh tế nhiền thành phần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần là hai hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia.

Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC165 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả ở các nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này được khoảng hơn 15 năm nay. Và có những thành tựu mà chúng ta đã đạt được cũng như có những khó khăn, những vấn đề gặp phải cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới. Điều này rất đáng được quan tâm. Và hiện nay, chúng ta cần hiểu rõ về tình hình kinh tế nước ta và tình hình kinh tế của thế giới. Nhất là đối với sinh viên khi nghiên cứu về kinh tế thì đề tài này giúp cho chúng ta trả lời được những câu hỏi: "Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường ?", "Vì sao mô hình kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia?", "Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào?", "Kinh tế thị trường bao gồm những nhân tố nào cấu thành nên và hoạt động của nó ra sao?", "Bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình hoạt động của nó diễn ra như thế nào?", "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các nước khác trên thế giới?", "Cách thức mà chúng ta sử dụng kinh tế thị trường trong việc phát triển kinh tế?"… Hàng loạt những câu hỏi này sẽ luôn xuất hiện khi chúng ta nghiên cứu về kinh tế. Đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được thêm về bản chất, tính chất cũng như nguồn gốc hình thành của nền kinh tế . Ngoài ra còn giúp cho chúng ta biết thêm được về thực tế, những nhân tố, những quy luật nào tác động đến kinh tế thị trường. Điều đó thực sự bổ ích và nó sẽ luôn hỗ trợ cho chúng ta trong quá trình học tập, nghiên cứu và nâng cao kiến thức, tích luỹ được của bản thân. Từ đó giúp cho chúng ta có được cái nhìn tổng quát hơn, thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội xẩy ra hiện nay.

Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu nghèo  

Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu nghèo Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC163 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Gần hai mươi năm qua, nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, định hướng phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường đã đem lại những thành quả rất đáng khích lệ : tăng trưởng kinh tế luôn được giữ ở mức ổn định khá, đời sống người dân theo đó cũng ngày càng được nâng cao...Tuy nhiên đi kèm với những thành quả này là những hệ quả xã hội tích cực có, tiêu cực có, trên bình diện những hậu quả tiêu cực, đây là những thách thức cho Đảng và nhà nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội để đạt tới mục tiêu vì một sự phát triển bền vững, trong đó vừa đảm bảo kinh tế phát triển, vừa đảm bảo giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng và bình đẳng. Theo chủ trương đó trong những năm vừa qua, đứng trước những vấn đề xã hội nảy sinh từ những tác động của quá trình phát triển, của cơ chế kinh tế thị trường như là tình trạng phân tầng xã hội, sự phân hóa giầu nghèo ngày càng rõ rệt... Đảng và nhà nước ta đã thực hiện tương đối tốt mối quan hệ giữa một bên là tăng trưởng kinh tế và một bên là bảo đảm sự công bằng xã hội. Tuy nhiên cũng còn tồn tại không ít những hạn chế nhất định. Phân tầng xã hội, phân hoá giầu nghèo là một tất yếu nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, nó có những tác động tích cực ở một góc độ nào đó đối với sự phát triển nền kinh tế nhưng cũng đặt ra không ít những vấn đề tiêu cực, như là thể hiện của một tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Thực tế vấn đề diễn ra như thế nào ? Trả lời câu hỏi này mang lại những ý nghĩa nhất định mà trước hết giúp ta thấy được thực tế của mối quan hệ kinh tế - xã hội và việc giải quyết nó trên một khía cạnh cụ thể đó là tăng trưởng kinh tế và phân hoá giầu nghèo...

Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam  

Vận dụng lý luận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC162 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải đổi mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

Vấn đề thành phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam  

Vấn đề thành phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC159 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và theo lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ vận dụng vào kinh tế, có phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản (CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội hiện có ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả vấn đề lại chính là ở đó. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hình thành được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xã hội để xây dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay, các thành phần kinh tế đã đóng góp nhất định của mình vào xây dựng vào nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế (Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta . Tuy nhiên, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Có nghĩa là trong mỗi chế độ xã hội cần có một thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, có nghĩa là trong mỗi chế độ XHCN cần có một thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xã hội nhất định. Ngay từ đầu lập nước, đảng ta đã xác định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà cơ sở hình thành nên CNXH đó chính là chế độ công hữu về tư liệu sản suất (TLSX), tức là TLSX thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà nước (KTNN) là thành phần kinh tế được hình thành trên hình thức sở hữu toàn dân vì vậy một tất yếu khách quan là KTNN phải là thành phần kinh tế nắm vai trò chủ đạo nhằm hướng toàn bộ nền kinh tế đi theo định hướng XHCN.

Chủ nghĩa Mác - Lênin về xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa ở Việt Nam )  

Chủ nghĩa Mác - Lênin về xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa ở Việt Nam ) Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC158 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Phát triển kinh tế là vấn đề quan trọng nhất từ trước tới nay của xã hội loai người. Kể từ khi con người xuất hiện , xã hội loài người đã trải qua và hình thành xã hội : cuộc sống nguyên thuỷ , chiếm hữu nô lệ , phong kiến , tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao đang huớng tới xã hội chủ nghĩa . Tương ứng với mỗi tình thái xã hội trong một hình thái kinh tế mang nét đặc trưng riêng . Tư bản chủ nghĩa cũng vậy , đây là một giai đoạn mà của cải vật chất của xã hội được sản xuất ra nhiều hơn tất cả các giai đoạn trước cộng lại . Một giai đoạn chứng kiến bao sự biến đổi cả về mặt chất lẫn về mặt lượng của xã hội loài người : kinh tế , khoa học kĩ thuật , chính trị , văn hoá ... Tuy nhiên trong giai đoạn này cũng là một giai đoạn phát triển còn nhiều thiếu sót như phân biệt giàu nghèo , khủng hoảng king tế , chiến tranh bất công bằng trong xã hội ... Từ những khuyết tật đó , con người muốn hướng tới một xã hội ở đó con người có quyền bình đẳng , không còn đói nghèo và áp bức bóc lột , vật chất sản xuất ra có thể đáp ứng mọi nhu cầu của con người... đó chính là chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng liệu xã hội tiến lên cộng sản chủ nghĩa bằng con đường nào và trong bao lâu , đây là một bài toán nan giải đã đang và sẽ đặt ra với tất cả nhân loại. Để tiến lên xã hội chủ nghĩa thì cần phải trải qua hai giai đoạn : đó là giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn chủ nghĩa cộng sản. Hiện nay nước ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ; một thời kì mang tính chất quá độ , cái mới thì chưa thành cái cũ thì chư hoàn toàn dứt bỏ , thời kí này có sự giao nhập của nhiều tư tưởng . Dưới ngọn cờ của Đảng là kim chỉ nam la Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cúng khong thể đốt cháy giai đoạn hay phủ nhận hoàn toàn những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đạt được , nhất là c3 chủ nghĩa tư bản nhà nước . Theo Lênin thì trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa , chúng ta không thể vuứt bỏ hoàn toàn chủ nghĩa tư bản nhà nước mà phải thấy được những điểm mạnh của nó dể phát huy. Sau sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu , hệ thống các nước theo chủ nghĩa xã hội bị ảnh hưởng rất lớn . Tuy nhiên Đảng và nhân đân Việt Nam vẫn kiên định đi theo con đường đã chọn và bảo vệ thành quả Cách mạng . Để tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải trải qua rất nhiều khó khăn do xuất phát điểm rất thấp , nền kinh tế lạc hậu , khoa học kĩ thuật thấp , trình độ quản lí còn yếu kém ...Vì vậy muốn phát triển xã hội chúng ta phải áp dụng mô hình kinh tế nhà nước tư bản vào sản xuất và quản lý . Đây là một vấn đề cần giải quyết làm sao cho phù hợp với nền kinh tế nước ta , tình hình phát triển kinh tế khu vực và thé giới trong sự chuyển hoá mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu , chúng ta phải đuổi kịp được guồng quay của toàn cầu hoákinh tế .

Sự phù hợp của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong các phương thức sản xuất trước tư bản chủ nghĩa  

Sự phù hợp của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong các phương thức sản xuất trước tư bản chủ nghĩa Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC157 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
I. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất 1. Lực lượng sản xuất Định nghĩa: lực lượng sản xuất và một kết cấu vật chất, bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là thước do trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Năng suất lao động xã hội là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xét đến cùng nó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội. 2. Quan hệ sản xuất Quan hẹ sản xuất là mối quan hê giữa người với người trong quá trình sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ chức quản lý; quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt nói trên của Quan hệ sản xuất có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định. Bản chất của bất kỳ Quan hẹ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào việc những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội thuộc về ai. Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất, sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. 3) Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ xã hội loài người: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ sự phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất, đồng thời Quan hệ sản xuất cũng tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất được quyết định bởi trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội. Trình độ lực lượng sản xuất càng cao thì phân công lao động càng tỉ mỉ. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất phát triển nhanh, còn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển len một trình độ mới, quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt bằng của phươg thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu sẽ dẫn đến việc xóa bỏ Quan hệ sản xuất cũ, thay thế quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất, đến phát triển và ứng dụng công nghệ… do đó tác động đến phát triển lực lượng sản xuất

Nội dung công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay  

Nội dung công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC155 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào, ở bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế suy đến cùng đều được bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phương thức sản xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nước chỉ là ở mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và trên thực tế chỉ một số ít nước công nghiệp hoá thành công. Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ trong cơ cấu xã hội. Vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay  

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC154 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Con người - với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có những cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng người còn hạn chế nhưng người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hao quả tự nhiên, chim thú săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Hay nói cách khác, con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Sở hữu được hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động (Ngày nay còn bao gồm cả tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Sở hữu là phạm trù cơ bản, phức tạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị học, thường được bàn nhiều và cũng đang tồn tại không ít ý kiến khác nhau và đối lập nhau nhưng tựu trung đều dựa trên nguyên tắc phương pháp luận coi sở hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giải thích nội dung kinh tế của sở hữu khao học kinh tế tư sản chỉ thấy trong sở hữu các quyền tài sản và sự phân biệt đang tăng lên của các quyền này; còn kinh tế - chính trị học truyền thống của CNXH coi sở hữu như quan hệ "Chủ - khách thể bị chiếm hữu bởi chủ thể" hay "Quan hệ giữa con người về việc chiếm hữu các yếu tố và kết quả sản xuất" do đó thường các quan niệm trên quy sở hữu tư bản chủ nghĩa thành sự chiếm hữu tư nhân(chế độ tư hữu) và sở hữu XHCN thành sự chiếm hữu toàn dân về các điều kiện và kết quả sản xuất (chế độ công hữu). Những quan niệm này bộc lộ chỗ yếu là đồng nhất các quan hệ pháp lý của kiến trúc thượng tầng với các cơ sở kinh tế của xã hội. Lẫn lộn các hiện tượng kinh tế với các quan hệ bên trong, ổn định, đang quy định tính chất và xu thế vận động của các hiện tượng và quá trình này xoá nhoà ranh giới khác nhau giữa các chế độ kinh tế và các hình thức sở hữu, do đó đã hiển nhiên hạ thấp vai trò lịch sử, đặc biệt của sở hữu trong hệ thống sở hữu xã hội. Cách tiếp cận trên về sở hữu đã tỏ ra không để để giải thích sở hữu tư sản hiện đại hơn nữa "Nó trở thành công cụ biện hộ cho việc Nhà nước hoá toàn bộ nền kinh tế và nảy sinh hệ thống hành chính chỉ huy của kinh doanh trong CNXH Nhà nước". Do vậy, việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu là cần thiết chẳng những đối với lý luận kinh tế học nói chung mà còn để có thể đánh giá được các đổi mới và thực chất của sở hữu tư sản hiện đại, về thực chất của mô hình XHCN kiểu cũ dựa trên chế độ công hữu thuần nhất, và về con đường tất yếu chuyển đổi nó sang thị trường. Đương nhiên sở hữu như một phạm trù kinh tế, khác sở hữu như một phạm trù của luật học và các khoa học xã hội khác, không phải là quan hệ chủ thể - khách thể, tuy rằng quan hệ chủ thể - khách thể "Vật liệu xây dựng" cho sở hữu kinh tế và là xuất phát điểm cho mọi quá trình kinh tế. Hơn nữa, đã có sự chuyển hoá sở hữu thực tế thành sở hữu kinh tế được gây ra bởi quá trình phản ứng kinh tế - xã hội, trong điều kiện phân công lao động xã hội và có sự trao đổi sản phẩm lao động (Mà điều kiện trao đổi là: chiếm hữu tư nhân về các sản phẩm khác nhau và sự trao đổi là tương đương).

Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân  

Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC153 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp cả nước góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân tăng tích luỹ, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Tuy vậy, kinh tế tư nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu… Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân".

Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam  

Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC152 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.

Hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với Việt Nam  

Hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC151 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.

Giá trị thặng dư - Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư  

Giá trị thặng dư - Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC150 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm, thu về giá trị thặng dư . Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức lao động cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ cơ bản nhất đó. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối. Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó quyết định sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư và các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, là chìa khóa dẫn đến những vấn đề khác trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay  

Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC149 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ khi đất nước được thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới. Trước đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động của thị trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .

Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  

Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC148 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là thời kỳ chuyển tiếp từ nền kinh tế cũ lạc hậu lên nền kinh tế mới xây dựng công hữu. Do đó đòi hỏi cần phải tập trung phát triển nền kinh tế thị trường với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì có như vậy mới đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu và bắt kịp với tốc độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì chúng ta không đơn thuần tập trung phát triển nền kinh tế thị trường thuần tuý mà phải đặt dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Với vai trò quan trọng "kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, khuyến khích tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật có lợi cho quốc kế dân sinh" - Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém và phải đương đầu với nhiều thách thức và khó khăn về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ, chất lượng, giá thành sản phẩm. Một số doanh nghiệp vốn lớn, công nghệ tiên tiến, còn phần lớn vẫn là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý doanh nghiệp còn yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường yếu; thêm vào đó là những khó khăn vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về khả năng tiếp cận và xử lý thông tin về môi trường pháp lý… Vì thế, kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước như huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, giải quyết và tạo công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Bên cạnh những mặt tích cực khu vực kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta bộc lộ những yếu kém, hạn chế đòi hỏi phải có sự can thiệp từ phía Nhà nước về các chính sách

Quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam  

Quan hệ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC147 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ năm 1986 đến nay nước ta đang thực hiện chính sách đổi mới để hội nhập quốc tế. Để trở thành một nước phát triển như mong đợi không những chúng ta phải phát triển một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta còn phải phát triển kinh tế mạnh mẽ, điều đó chỉ có được khi phân phối thu nhập ở nước ta đồng đều. Việt Nam là một nước đang phát triển, thu nhập của người dân chưa cao, không những thế lại có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và đồng bằng, xuất hiện những người giàu và những người nghèo, gây ra tình hình trong nước luôn có những bất đồng, phức tạp. Hơn nữa phân phối thu nhập lại là một khâu không kém phần quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nó là mục tiêu của quá trình sản xuất. Phân phối thu nhập có ảnh hưởng trở lại đối với sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Phân phối đúng đắn thu nhập cá nhân của xã hội, các thành viên xã hội nước ta trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội là một vấn đề vô cùng hệ trọng, tạo ra động lực góp phần tích cực vào sản xuất tạo điều kiện cho sản xuất xã hội. Đồng thời góp phần tích cực làm ổn định tình hình kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy vấn đề cấp bách hiện nay đặt ra là phân phối thu nhập đồng đều, tuy nhiên hiện nay trong thực tế gặp phải không ít những khó khăn.

Thực trạng và giải pháp phát triển các loại thị trường  

Thực trạng và giải pháp phát triển các loại thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC146 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam là một quốc gia nhỏ bé và còn non trẻ thuộc vùng Đông Nam Châu Á, một dân tộc anh hùng với bao phen vào sinh ra tử để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, và nay cũng đang chứng minh với toàn thế giới họ cũn là một dân tộc anh hùng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ đại hội VI, VII, VIII đến đại hội IX của Đảng nhiều tư duy nhận thức mới đã được rút ra và trở thành các quan điểm mới . Đảng ta đã khẳng định “đổi mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “ ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và cấp thiết. Để phát triển nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó ta cần xây dựng và phát triển đồng bộ tất cả các loại thị trường, những loại thị trường còn đang hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Việc hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “có thể ví cơ thể sống phải có đầy đủ các bộ phận của cơ thể “. Tuy nhiên trong cơ thể sống mọi bộ phận không thể cùng một lúc được hình thành và phát triển như cơ thể đã trưởng thành. Nền kinh tế cũng vậy, để có thể vận hành được thì phải nhen nhóm ấp ủ hình thành và phát triển dần từng bước. Nghị quyết đại hội Đảng IX đã khẳng định : “ thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những thị trường còn sơ khai như : thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ ”. Theo mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc nghiên cứu và định hình phát triển các loại thị trường ở nước ta đã được rất nhiều viện nghiên cứu kinh tế quốc gia nghiên cứu. Việc phân tích những vấn đề lí luận và thực trạng việc phát triển các loại thị trường ở Việt Nam được phân tích sau đây tuy không đạt được tính khái quát cao, nhưng mong rằng nó sẽ góp một tiếng nói cho công cuộc phát triển kinh tế nước ta hôm nay.

Đẩy mạnh Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam  

Đẩy mạnh Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC145 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Khoảng 20, 30 năm về trước Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang đầy tính bảo thủ, quan liêu, bao cấp. Trong cái khuôn khổ chật hẹp đó, các doanh nghiệp luôn bị gò bó, hạn chế về mọi mặt, vì thế, việc mở rộng hay phát triển dường như là điều không tưởng đối với họ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh chủ trương mới của Đảng và Nhà nước đã tạo ra một sức bật mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp tư nhân, nhưng còn các doanh nghiệp nhà nước ? Với những tư tưởng vẫn còn mang nặng tính bảo thủ, do vẫn còn được bao cấp bởi Nhà Nước và nhiều mặt hạn chế khác, các doanh nghiệp nhà nước đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động cũng như phát triển của mình. Hơn thế nữa doanh nghiệp nhà nước lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp ở nước ta vì thế cùng với quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước doanh nghiệp nhà nước , Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình tất yếu của Việt Nam – một quốc gia với nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, bởi vì việc sắp xếp và chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần tiến lên hình thành các tập đoàn, công ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.

Tội phạm tham nhũng - một số vấn đề lý luận, thực tế và những ảnh hưởng tới nền kinh tế, một số biện pháp đấu tranh phòng chống  

Tội phạm tham nhũng - một số vấn đề lý luận, thực tế và những ảnh hưởng tới nền kinh tế, một số biện pháp đấu tranh phòng chống Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC143 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Bước vào thế kỷ thứ 21, tất cả thế giới đang vận hanh theo xu hướng mới: hoà bình, đối thoại, hội nhập và cùng phát triển. Các ranh giới ngăn cách về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc sẽ dần được xoá bỏ. Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một bước đang phát triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập nhất là về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Bằng việc phát huy cao độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắn tiến những bước lớn trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con đường ấy, đó là các tội phạm về tham nhũng (mà theo ngôn ngữ của người dân là những con sâu mọt đang đục khoét xã hội) cũng đang ngày càng gia tăng về mức độ phổ biến, quy mô và thủ đoạn. Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và nền kinh tế đang chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đôi của Chính phủ các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể. Mặc dù tội phạm tham nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm và có tính chất truyền thống nhưng việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống loại tội phạm này luôn là một vấn đề bức xúc đối với mọi nền kinh tế trên thế giới và đối với sự phát triển của nền Việt Nam nói riêng. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình sự nói riêng.

Phân tích Lực lượng sản xuất qua ba phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản  

Phân tích Lực lượng sản xuất qua ba phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC142 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Xã hội loài người đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử xây dựng và phát triển. Kể từ xuất hiện, loài người với khả năng lao động sáng tạo của mình đã dần chinh phục tự nhiên và dần dần làm chủ thế giới.Ngày nay chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên mới, một kỉ nguyên của công nghệ thông tin và tự động hoá.Số lượng của cải vật chất được loài người sản xuất ra ngày càng tăng nhanh, loài người ngày nay đang được sống trong một cuộc sống sung túc và đầy đủ, nhưng để có được những thành tựu to lớn ngày hôm nay loài người đã phải trải qua một quá trình lao động sáng tạo lâu dài, phát minh ra nhiều công cụ sản xuất mới nhằm nâng cao năng suất.Quá trình phát triển của loài người được đánh dấu bằng năm phương thức sản xuất : công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trải qua mỗi phương thức sản xuất chúng ta đều nhận thấy sự phát triển và vai trò to lớn của lực lượng sản xuất mà hai bộ phận cấu thành chủ yếu của nó là con người và các tư liệu sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của loài người với dân số ngày càng tăng cao.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay  

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC141 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tốn tại và phát triển của từng quốc gia từng dân tộc. Vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỉ qua, do đó việc tìm tòi mô hình quản lý kinh tế thích hợp và có hiệu quả hơn là vấn đề mà nhà nước ta và nhiều nước trên thế giới quan tâm. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong những năm qua, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước, nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay  

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC140 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta đã lựa chọn trong thời kì đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Qua đề tài: “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay”, chúng ta có thể xác định một cách rõ ràng và nhất quán về vị trí, vai trò kinh tế của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế. Hơn nữa, ta có thấy được những mặt tích cực và hạn chế của vấn đề, có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong đề tài trên

Vận dụng lý luận tăng lợi nhuận để phân tích thực tế về phát triển sản xuất ở công ty Da giầy Hà Nội  

Vận dụng lý luận tăng lợi nhuận để phân tích thực tế về phát triển sản xuất ở công ty Da giầy Hà Nội Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC139 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
ông cuộc cải cách hơn mười năm qua đang tạo đà cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ . Hơn thế nữa chúng ta đang bước vào thế kỷ 21-thế kỷ của sự phát triển cao độ trên tất cả các lĩnh vực , thế kỷ của quá trình khu vực hoá , toàn cầu hoá kinh tế . Sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới ở cuối thế kỷ 20 hiện nay và cả trong tương lai đã tạo thời cơ mới và thách thức mới đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty Da giầy Hà Nội nói riêng . Đối với công ty Da giầy Hà Nội cơ hội có nhiều nhưng thách thức cũng không phải là ít . Một trong những thách thức đó là xuất phát từ quy luật cạnh tranh . Nó vừa là động lực nhưng đồng thời cũng là nguy cơ đe doạ sự sinh tồn của công ty . Để thích ứng với nền kinh tế thị trường đảm bảo phát triển nhanh và vững mạnh thì một yêu cầu nhất thiết đặt ra cho công ty là không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Công ty da giầy Hà Nội đã và đang thực hiện tốt công tác đó và đặc biệt là đạt lợi nhuận cao .

Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường  

Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC138 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu kém. Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên của ASEAN, APEC, sắp trở thành thành viên của WTO, rồi mở cửa hội nhập AFTA vào năm 2006) thì nước ta cần có một nền kinh tế với sức cạnh tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt được mục đích trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn như vậy chúng ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế với các đối tượng cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát huy các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn. Với mục tiêu như vậy thật không dễ dàng cho Việt Nam, khi mà nền kinh tế hiện nay không có gì làm đảm bảo, các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, còn trì trệ, tình trạng thang nhũng và thất thoát vốn nhà nước tăng cao. Các doanh nghiệp nhà nước không phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế khi mà nhận được nhiều hỗ trợ từ phía nhà nước, ngành nghề kinh doanh, chế độ tín dụng,… Trong tay nắm hầu hết các nguồn lực quan trọng như: 100% mỏ dầu, 80% rừng, 90% lao động được coi trọng, có phần xem nhẹ ưu điểm của các doanh nghiệp tư nhân. Vừa qua, ngày 13/10/2004, chúng ta đã thành lập được hiệp hội các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, điều đó cho thấy có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của tư nhân, doanh nghiệp tư nhân đang dần nhận được sự quan tâm từ phía nhà nước và đóng vai trò quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế.

Những cơ hội và thách thức của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Giải pháp để vượt qua những thách thức  

Những cơ hội và thách thức của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Giải pháp để vượt qua những thách thức Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC137 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, Khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách.Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh,Việt Nam của chúng ta cũng vậy. Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Sức cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể thiếu đối với bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ dân tộc nào. Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ rào cản,chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam (về chất lượng và giá cả) .Nhưng làm sao và làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta hiện nay đang là vấn đề hết sức nan giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.

Lý luận chung về thị trường  

Lý luận chung về thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC136 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam là một quốc gia nhỏ bé và còn non trẻ thuộc vùng Đông Nam Châu Á, một dân tộc anh hùng với bao phen vào sinh ra tử để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, và nay cũng đang chứng minh với toàn thế giới họ cũn là một dân tộc anh hùng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ đại hội VI, VII, VIII đến đại hội IX của Đảng nhiều tư duy nhận thức mới đã được rút ra và trở thành các quan điểm mới . Đảng ta đã khẳng định “đổi mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “ ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và cấp thiết. Để phát triển nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó ta cần xây dựng và phát triển đồng bộ tất cả các loại thị trường, những loại thị trường còn đang hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Việc hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “có thể ví cơ thể sống phải có đầy đủ các bộ phận của cơ thể “. Tuy nhiên trong cơ thể sống mọi bộ phận không thể cùng một lúc được hình thành và phát triển như cơ thể đã trưởng thành. Nền kinh tế cũng vậy, để có thể vận hành được thì phải nhen nhóm ấp ủ hình thành và phát triển dần từng bước. Nghị quyết đại hội Đảng IX đã khẳng định : “ thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những thị trường còn sơ khai như : thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ ”. Theo mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc nghiên cứu và định hình phát triển các loại thị trường ở nước ta đã được rất nhiều viện nghiên cứu kinh tế quốc gia nghiên cứu. Việc phân tích những vấn đề lí luận và thực trạng việc phát triển các loại thị trường ở Việt Nam được phân tích sau đây tuy không đạt được tính khái quát cao, nhưng mong rằng nó sẽ góp một tiếng nói cho công cuộc phát triển kinh tế nước ta hôm nay.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam  

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC135 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của sự toàn cầu hoá, hứa hẹn nhiều biến chuyển. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các công ty đa quốc gia cùng với phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua trên con đường phát triển .Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được chuyên sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội . Chúng ta đang sống trong giai đoạn chứng kiến những sự thay đổi nhanh chóng trong tổng thể nền kinh tế, kĩ thuật , công nghệ, và những biến đổi khác trong chính trị, xã hội . Tất cả đem lại cho thời đại một sắc màu riêng. Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển mình để không bị gạt ra khỏi vòng quay của sự phát triển .Trong bối cảnh đó, xu hướng mở cửa, hợp tác kinh tế với các nước là một quan điểm nổi bật của chính phủ ta. Thể hiện điều này ngày 19/12/1987 Quốc Hội ta đã thông qua luật đàu tư trực tiếp nước ngoài, cho phép các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Qua đó đã thu hút được một lượng vốn lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên quá trình đó còn găp nhiều thách thức, cần có sự nỗ lực từ hai phía.

Phân tích bản chất của phạm trù giá trị thặng dư trong bộ Tư bản - Mác đã phân tích như thế nào về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư  

Phân tích bản chất của phạm trù giá trị thặng dư trong bộ Tư bản - Mác đã phân tích như thế nào về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC134 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mọi tư bản mới đầu đều biểu hiện dưới một số tiền nhất định nhưng tiền tệ chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định. Nếu là tiền thông thường thì hoạt động theo phương thức hàng - tiền - hàng (H-T-H). Công thức này gọi là công thức lưu thông hàng hoá giản đơn, còn nếu tiền là tư bản thì vận động theo công thức tiền - hàng - tiền (T-H-T). Công thức này gọi là công thức lưu thông của tư bản. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng. Vì vậy sự vận động sẽ kết thúc khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà anh ta cần đến. Trái lại, mục đích sự vận động của tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Hơn nữa là giá trị tăng thêm vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô nghĩa. Vì vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Do đó công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T + t. Số dôi ra đó (t) Mác gọi là giá trị thặng dư và số tiền ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Vì vậy sự vận động của tư bản cũng không có giới hạn. Mác gọi công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng tổng quát đo dù là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.

Nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư  

Nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC133 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy lực lượng sản xuất ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển, nhờ đó không những các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu ngạch cao mà đời sống của những người lao động tại nghiệp cũng được cải thiện và hình thành tầng lớp trung lưu trong xã hội. Trước thực tế đó, cộng thêm sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều người nghi ngờ tính đúng đắn của khoa học kinh tế chính trị Mác- Lênin, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư “hòn đá tảng” trong các học thuyết kinh tế của Mác. Những người phản bác học thuyết giá trị thặng dư tấn công vào “hòn đá tảng” này bằng nhiều luận điểm khác nhau. Phê phán những luận điểm đó, chúng ta tập trung vào việc nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư để giải thích quan niệm trên.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để hội nhập có hiệu quả  

Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để hội nhập có hiệu quả Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC132 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ sau đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng kể, tốc độ tăng trưởng bình quân trong những năm gần đây luôn đạt mức trên dưới 7%, được xếp vào nhóm nước có mức tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới. Tuy nhiên điều đó không nói lên được khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, đặc biệt chúng ta đang trong quá trình đàm phán để sắp sửa gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO- và trong lộ trình cắt giảm thuế quan để thực hiện gia nhập Khu vực mậu dịch tự do AFTA. Trong giai đoạn này hàng hoá và dịch vụ mang nhãn mác MADE IN VIETNAM mới chứng tỏ được sức mạnh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam liệu có chứng tỏ năng lực cạnh tranh của mình? Một trong mười nguyên lý kinh tế của giáo sư Trường đại học Havard- Mỹ có nói rằng, thương mại quốc tế làm cho mọi người đều có lợi, nhưng khi nước ta thực sự hội nhập thì chúng ta sẽ bị thiệt hay lơi? và làm thế nào để chúng ta có được lợi nhiều hơn là hại hay nói cách khác chúng ta phải làm gì để tận dụng xu thế hội nhập để phát triển đất nước trong độc lập tự chủ và loại bỏ những bất lợi đối mặt với thách thức mà hội nhập đưa đến cho chúng ta. Trong những năm vừa qua, nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức để bàn về năng lực cạnh tranh nền kinh tế Việt Nam trong thời buổi hội nhập kinh tế quốc tế và không ít các nhà báo kinh tế viết về chủ đề này.

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam lí luận và thực tiễn  

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam lí luận và thực tiễn Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC130 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Như đã biết đất nước ta là một nước nghèo, các trang thiết bị lạc hậu, nguồn tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm. Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây. Các ngân hàng cho vay cũng phải có các điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Hầu hết các doanh nghiệp ở trong tình trạng không có vốn nhưng cũng không có cách nào để huy động. Đối mặt với những khó khăn đó, cổ phần hóa được coi là một giải pháp nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Vì vậy đây là lựa chọn tất yếu có tính khách quan. Cổ phần hóa là một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới. Cổ phần hóa thu hút được một nguồn vốn nhất định trong công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo ra một động lực trong quản lý và phát huy tốt hơn tính sáng tạo, cần cù của người lao động việc làm của người lao động đảm bảo tốt hơn nên doanh thu lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách, tích lũy vốn của doanh nghiệp và chính thu nhập của người lao động sẽ tăng lên chuyển đổi hình thức sở hữu với quy chế quản lý mới,người lao động sẽ phát huy ý thức kỷ luật, tự giác, chủ động tinh thần tiết kiệm trong lao động góp phần làm cho hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ngày càng cao, mang lợi ích thiết thực cho bản thân mình, công ty Nhà nước và xã hội.

Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam  

Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC129 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đất nước Việt Nam ta sau nhiều năm giành được độc lập, nền kinh tế vẫn đi theo con đường tự cấp tự túc. Cho đến năm 1986, nước ta mới bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,như nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường …,thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN.Đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện nay chưa có hoặc còn sơ khai như : thị trường lao động,thị trường chứng khoán,thị trường bất động sản,thị trường khoa học công nghệ…” Trong quá trình đổi mới đó,Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên cơ sở vật chất- kỹ thuật,nguồn lực còn yếu kém nên chúng ta còn nhiều hạn chế.Đặc biệt, sự phát triển của các loại thị trường chưa đồng bộ. Do vậy chúng ta cần phải nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về thị trường trong nền kinh tế thị trường(KTTT) định hướng XHCN ở Việt Nam, để có được những hiểu biết và giải pháp thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam.

Đẩy mạnh cổ phần hóamột bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam  

Đẩy mạnh cổ phần hóamột bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC128 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước.Trong một môi trường mới,điều kiện cơ chế quản lý thay đổi,khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ những yếu kém và lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng.Kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới cho thấy,Cổ phần hóa có vai trò rất quan trọng trongviệc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước,nhất là những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam.Cổ phần hóa có tác động mạnh mẽ và rấthiệu quả đến việc khai thác,sử dụng và phát huy các nguồn lực về vốn, tài sản và con người để phát triển sản xuất kinh doanh,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy Cổ phần hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình đổi mới và phát triển DNNN nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.

công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn  

công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC127 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá là một quá trình kinh tế.Trong quá trình này,một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được đông viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành với kĩ thuật hiện đại.Đặc diểm của cơ cấu này là có một bộ phân chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân với nhịp dộ cao bảo đảm đạt tới tiến bộ về kinh tế-xã hội Hiện nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và xu thế quốc tế hoácông nghiệp hoá càng là con đuờng tất yếu mà các nước đang phát triển phải trải qua để có thể đi nhanh, đuổi kịp các nước phát triển Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất mà con người phải dựa vào những quy luật sinh trưởng của cây trồng vật nuôi để tạo ra lương thựcthực phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.Nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa,nên nền kinh tế còn rất lạc hậu,nhất là trong nông nghiệp.Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội còn nhiều hạn chế như : năng suất lao động thấp,ứng dụng khoa học kĩ thuật còn ít nhưng không vì thế mà nông nghiệp lại mất đi vai trò quan trọng của nó như : cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội ; cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ ; cung cấp vốn để công nghiệp hoá ; nông nghiệp và nông thôn là thị trương quan trọng để phát triển công nghiệp và dịch vụ ; nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để ổn định kinh tế ,chính trị và xã hội Từ những vai trò to lớn và hạn chế đó của nông nghiệp và nông thôn , Đảng ta luôn khẳng định rằng : công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đất nước ta trong những năm trước mắt

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay  

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC126 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ năm 1975, khi cả nước độc lập. Cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chủ trương giữ vững quan điểm cũng như con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở thành một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công bằng văn minh. Để đạt được như vậy, Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên phát triển kinh tế và coi đó là vấn đề sống còn và một trong số đó là xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Do đó mà ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và hiệu quả hơn. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII trình đại hội IX của Đảng ta có đề cập : “ Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động” Chính vì vậy mà xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta, và nhờ có đường lối đúng đắn kinh tế nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiên đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững. Nước ta từ một nứoc có nên kinh tế quan liêu, bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.

Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước  

Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC125 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Tổng bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Khả Phiêu phát biểu tại hội thảo quốc tế Việt Nam trong thế kỷ 20 đã từng nói: "Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ rằng: dân tộc mình là một dân tộc nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức thấp… Chúng tôi hiểu rõ khoảng cách giữa nền kinh tế của chúng tôi và nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi hiểu rõ khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lấy sức ta mà giải phóng cho ta chúng tôi phải tri thức hóa Đảng, tri thức hóa dân tộc tiếp tục tri thức hóa công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành độc lập 45 cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói. Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc". Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu. Chúng ta đã từng chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không làm được, và tôn tin rằng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế với lực lượng lao động dồi dào, ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu.

Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay  

Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC124 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù Doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có năng lực cũng tập trung chủ yếu trong các Doanh nghiệp nhà nước. Các Doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng… Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả mong muốn.

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay  

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC123 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong lịch sử phát triển nền kinh tế của các nước XHCN trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, chúng ta chỉ thấy một mô hình kinh tế thuần nhất đó là mô hình kinh tế chỉ huy tập trung bao cấp. Có thể nói đây là một mô hình kinh tế kém năng động và khó thích nghi với sự phất triển chung của kinh tế thế giới, chính vì vậy mà một số các quốc gia và cả nước ta khi áp dụng mô hình này đã gặp phải những khó khăn không nhỏ. Từ việc nhận thức đúng đắn những ưu khuyết tật trong thực tiễn tồn tại của nền kinh tế lúc bấy giờ nên đại hội đảng VI đã đi đến quyết định mang tính cách mạng trong con đường cái cách nền kinh tế. Bắt đầu từ đó mô hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN lần đầu tiên được áp dụng vào Việt Nam . Cũng bắt đầu từ đó thì có không ít ý kiến tranh luận cho rằng có phải cơ chế thị trường là sản phẩm của CNTB hay không và sự vận dụng của ta có phải là sự vận dụng kinh nghiệm của CNTB hay không ? Nhiều ý kiến thì cho rằng kinh tế thị trường và CNXH là như nước với lửa không thể dung nạp với nhau, bởi kinh tế thị trường tồn tại trong nó rất nhiều những khuyết tật không thể chấp nhận được. Như vậy, tư tưởng phát triển kinh tế hàng hoá thị trường dưới chế độ XHCN ở nước ta là chưa thống nhất. Việc vạch định ra ưu điểm và hạn chế của nền kinh tế hàng hoá-kinh tế thị trường là điều cần thiết. Vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm phân tích, và theo em thì dường như mọi người đã có những nhận định khá toàn diện về những ưu, những khuyết của nền kinh tế thị trường. Nhưng vấn đề chính lại là ở chỗ khi chung ta đã quyết tâm đi theo xây dựng nền kinh tế thị trường rồi thì chúng ta phải làm như thế nào, phải dùng những công cụ nào và ai là người đứng ra sử dụng những công cụ đó để hạn chế những khuyết tật, phát huy những ưu điểm của nó.

Bản chất và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư  

Bản chất và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC120 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Theo danh giá của VI LêNin thì lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của C.Mac. Các nhà tư bản để đạt được mục đích tối đa của mình họ đã mua sức lao động của người công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư. Các nhà kinh tế học thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bót lột lao động làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư , phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động và tư bản chiếm không. Chính vì vậy mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật thặng dư. Nó quyết định đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn  

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC119 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong khu vực trên thế giới.

Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu sự lựa chọn con đường xã hội chủ :nghĩa của Việt Nam  

Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu sự lựa chọn con đường xã hội chủ :nghĩa của Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC117 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lý luận, hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã được thừa nhận Lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nối chung của xã hội loài người Song, ngày nay. Đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, lý luận đó đang được phê phán từ nhiều phía. Sự phê phán đó không phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy làm rõ thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết . Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau phải tập chung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội , việc vận dụng lý luận đóvào điều kiện Việt Nam; vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.

Phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay  

Phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC116 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh tế trang trại ở nước ta đã tồn tại từ lâu, nhưng chỉ phát triển mạnh mẽ trong vài năm gần đây. Có thể nói việc thực hiện chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW Đảng (Khoá 4), Nghị quyết 10 - NQ/TW của Bộ Chính trị (Tháng 4/1988) về phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân đã đặt nền móng cho sự ra đời của kinh tế trang trại với những thành tựu của công cuộc đổi mới, sản xuất nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, nhiều hộ nông dân có tích luỹ, đã tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển. Đặc biệt là sau khi luật đất đai ra đời năm 1993, thì kinh tế trang trại mới có bước phát triển khá nhanh và đa dạng. Việc phát triển kinh tế trang trại đã đem lại lợi ích to lớn về nhiều mặt, làm thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế - xã hội của các vùng nông thôn. Trong những năm đổi mới nhờ chủ trương của Đảng khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và việc trang trại trả lại cho hộ nông dân quyền tự chủ về kinh tế mà kinh tế hộ cũng như kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể trong nông nghiệp đã có bước phát triển mạnh mẽ, tạo động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta phát triển, khai thác đầy đủ hơn các tiềm năng và nguồn lực về đất đai, vốn và lao động.

Tính khách quan trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Tính khách quan trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC115 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Chúng ta đang sống trong một thời đại cách mạng công nghiệp. Quanh ta khắp nơi trên thế giới đã và đang diễn ra quá trình chuyển đổi trong đời sống kinh tế. Quá trình cải cách kinh tế là thử thách lớn nhất đối với tất cả các dân tộc và các chế độ muốn thay đổi mô hình hoạt động kinh tế của mình. Có nhiều xu hướng khác nhau, song có một chủ đề chung là chuyển nền kinh tế sang định hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo chính trị ở nhiều nơi trên thế giới đã đi đến kết luận rằng : nhìn chung, thị trường đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng một cách vững chắc. Tuy nhiên, cách thức để đạt được mục tiêu đó cũng rất khác nhau. Và cũng ở đây, mỗi nước xẽ tìm cho mình một con đường đi lên, dựa trên nền tảng lịch sử, văn hoá dân tộc. Với xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Việt Nam cũng chọn cho mình một con đường phát triển kinh tế. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã chọn cho đất nước của mình con đường phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển tất yếu phù hợp với những điều kiện khách quan vốn có. Cũng xác định,việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, vươn lên một nền kinh tế hiện đại, ngang tầm với các nước trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thực trạng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.  

Thực trạng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC114 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia, kể cả những nước đã đạt đến trình độ phát triển cao. Nó là khu vực sản xuất chủ yếu, đảm bảo việc làm và đời sống cho xã hội, là thị trường rộng lớn cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế, nguồn nhân lực và nguồn tích luỹ cho công nghiệp hoá, phát triển kinh tế. Kinh nghiệm của Mỹ, Nhật Bản đã đạt đến trình độ cao, cũng như các nước đã trở thành nước công nghiệp mới, trong những thập niên gần đây vẫn rất coi trọng nông nghiệp, nông thôn, thành công mà họ đã đạ được là hiện đại hoá ngành nông nghiệp, cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn, thay đổi cơ cấu dân số nông thôn - thành thị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn, làm cho thu nhập kinh tế khu vực nông thôn không chênh lệch quá xa so với khu vực đô thị. Và do đó nông nghiệp và kinh tế nông thôn có điều kiện tích tụ vốn cho quá trình công nghiệp hoá. Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, nó luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nông nghiệp ngày nay khẳng định vị trí của mình trong cơ cấu nền kinh tế. Nó góp phần tích cực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Ở nước ta, một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, 80% dân số sống ở nông thôn, kinh tế còn thuần nông, cơ cấu nông nghiệp độc canh, GDP từ nông nghiệp còn rất lớn, năng suất khai thác từ ruộng đất và năng suất lao động còn thấp thì vấn đền nông thôn lại càng trở nên quan trọng. Mục tiêu của công nghiệp hoá mà Đảng ta đã đề ra lànhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện khẩu hiệu "dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Để đạt mục tiêu đó trước hết không thể không thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nền nông nghiệp hoá hiện đại, nông thôn văn minh. Đó là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng nhưng cũng rất khó khăn phức tạp.

Tại sao nói học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng to lớn nhất trong học thuyết kinh tế của C. Mác  

Tại sao nói học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng to lớn nhất trong học thuyết kinh tế của C. Mác Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC113 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Các Mác - Nhà kinh tế chính trị học, Nhà triết học thiên tài của Đức đã để lại cho nhân loại biết bao học thuyết mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị . Có thể nói học thuyết giá trị thặng dư là một phát hiện vĩ đại nhất của Mác ở thế kỷ XIX. Nó là "viên đá tảng" trong toàn bộ học thuyết của ông. Chúng ta, ai cũng biết rằng: bất cứ một học thuyết kinh tế nào ra đời hay hình thành cũng đều dựa trên hai tiền đề là thực tiễn và học thuyết . Bởi lẽ tư duy học thuyết bắt nguồn từ thực tiễn rồi quay trở lại thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của học thuyết . Hơn nữa một đặc điểm kinh tế của Các Mác là tính kế thừa và tính phê phán: kế thừa cái đã có, còn đúng và phê phán để tìm ra những hạn chế của học thuyết đã có để lọc bỏ, bổ sung, sáng tạo, phát triển và hoàn thiện. Học thuyết kinh tế của Các Mác được trình bày trong tác phẩm vĩ đại của ông là Bộ "Tư bản". Trong bài viết này chúng ta chỉ đề cập đến một học thuyết vĩ đại nhất của ông , đó là học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác ra đời trong bối cảnh lịch sử Tây Âu của những năm 40 thế kỷ XIX: - Về thực tiễn kinh tế : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dựa trên thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành. Chính nó đã tạo ra cơ sở vật chất để các phạm trù kinh tế với tư cách là bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ khá rõ nét. - Về thực tiễn chính trị xã hội : là thời kỳ có nhiều biến đổi về chính trị và xã hội đã và đang diễn ra (Cách mạng phản phong kến của Pháp, Công xã Pari và phong trào công nhân Pháp, Phong trào hiến chương, Cuộc cách mạng tư sản 1848 mang tính toàn châu Âu). Đó là những chất liệu quý giá cho sự hình thành các học thuyết của Các Mác . - Về tiền đề lý luận: Các Mác đã dựa vào kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ( W. Petty, A.Smith, D.Ricardo), chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, Triết học cổ điển Đức (Hêghen và Phoiơbắc). Các Mác đã kế thừa những tư tưởng của nhân loại, sửa đổi, bổ xung và phát triển học thuyết kinh tế của mình ở trình độ cao hơn.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC112 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập chung( nền kinh tế đã kìm hãm sự phát triển của xã hội trong một thời gian khá dài) sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân . Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến. Sau 18 năm đổi mới chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, luôn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức cao.Với những thành tựu đã đạt cũng đã chứng minh được phần nào bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bên cạnh những thành tựu trên nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta cũng còn rất nhiều khó khăn cần phải giải quyết.

Vai trò của các hình thức tiền lương trong viêc kích thích lao động  

Vai trò của các hình thức tiền lương trong viêc kích thích lao động Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC111 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đứng trước những biến động không có lợi của nền kinh tế thế giới hiện nay, Việt Nam là một trong những nước châu Á có nền kinh tế ít biến động nhất.Đảng và nhà nước ta không lấy đó làm chủ quan để quên đi mục đích cuối cùng là tiến tới XHCN- một xã hội mà trong đó con người được đề cao , được tự do - ấm no - hạnh phúc. Mục tiêu đã có vậy vấn đề ở đây là những đường lối , chính sách của nhà nước trong nền kinh tế hiện nay . Chính sách , chế độ tiền lương là một trong những vấn đề trọng yếu liên quan mật thiết và có ảnh hưởng thường xuyên mang tính quyết định tới động thái kinh tế, chính trị , xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rất rõ : quan tâm đến con người là vấn đề trọng tâm để phát triển kinh tế , xã hội hay nói một cách khác là đầu tư vào con người chính là hình thức đầu tư có lợi nhất cho tương lai của chúng ta. Chỉ có quan tâm phát triển con người mới khai thác được khả năng tiềm ẩn của họ. Một trong những nhân tố kích thích được khả năng ấy là lợi ích của họ khi tham gia các hoạt động kinh tế- xã hội . công tac tiền lương nói chung và hình thức tiền lương nói riêng là một trong những biểu hiện cụ thể của lợi ích đó. Trải qua bao năm tháng thăng trầm của lịch sử, chúng ta đã luôn thay đổi để phù hợp với bối cảnh xã hội. Mặc dù các hình thức tiền lương , tiền thưởng đã áp dụng khá lâu ở nước ta nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều bất cập. Tiền lương vẫn chưa thực sự phát huy được tính năng của nó.

Thực trạng và giải pháp kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay.  

Thực trạng và giải pháp kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay. Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC110 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nềnkinh tế Việt Nam. Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường , Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế non trẻ của nước ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề bất cập trong xã hôi, trong chủ trương chính sách và tổ chức quản lý đang là trở ngại cho sự phát triển của thành phần kinh tế này. Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH, HĐH phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư bản tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua mặc dù đã có bước phát triển tốt, kinh tế tư bản tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai trò tương xứng với tiềm năng của nó.

Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam  

Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC108 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
LỜI MỞ ĐẦU Sự chuyển đổi nền kinh tế thị trường (KTTT) theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là xu hướng tất yếu của mọi xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế các nước phát triển trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao và xu hướng vận động phát triển của thế giới đang tiến vào thế kỷ văn minh trí tuệ thì sự chuyển đổi KTTT theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là tất yếu khách quan của bất kỳ một quốc gia nào muốn vươn tới và hoà nhập với xu hướng phát triển chung của nhân loại. Sự phát triển thần kỳ của các nước Châu Á mà đặc biệt là các nước Đông Nam Á là một minh chứng cho sự thành công của quá trình chuyển đổi. Sự phát triển thần kỳ như vũ bão của Đông Nam Á, sự bùng nổ khoa học kỹ thuật với tốc độ chóng mặt, quan hệ thế giới đã bước sang đối thoại hợp tác cùng nhau phát triển đã tác động rất lớn tới Việt Nam. Về mặt kinh tế hiện nay Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia kém phát triển. Để có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngang hàng với các quốc gia khác, Việt Nam cần phải tìm cho mình con đường phát triển phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong nước vừa đảm bảo xu thế phát triển chung của thế giới. Đó chính là việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Chính vì vậy Đảng đã xác định "việc chuyển đổi nền kinh tế sang KTTT định hướng XHCN" là rất cần thiết và Đảng cũng nhấn mạnh vai trò kinh tế của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Kinh nghiệm các nước công nghiệp mới và Nhật Bản cho thấy vai trò kinh tế của Nhà nước là một trong những nhân tố quyết định đến sự phát triển của đất nước. Nói đến sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản là nói tới "hiệu năng Nhật Bản" là sự tác động quyết định do có sự quản lý nền kinh tế của Nhà nước. Từ giữa những năm 80 khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã nhận rõ vai trò động lực tư lớn của Nhà nước tới nền KTTT. Nhà nước không những là chủ thể mà còn là khách thể. Nhà nước tham gia vào các loại quan hệ khác nhau trong nền kinh tế. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải làm rõ được vai trò kinh tế của Nhà nước và sử dụng nó một cách có hiệu quả để thúc đẩy quá trình vận động nền KTTT theo định hướng XHCN theo hướng có lợi nhất vừa phát huy tác dụng tích cực và hạn chế được nhiều khiếm khuyết của nền KTTT vừa đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội

Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện naym hiện nay  

Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện naym hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC107 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với kinh tế thị trường. Vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế, vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã không nhận thức đúng về kinh tế thị trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư bản, đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế; coi nhẹ qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh; chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường. Xã hội Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số 1 đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nền kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế  

Nền kinh tế hàng hoá nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC106 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ khi hoà bình độc lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải qua giai đoạn phát triển TBCN". Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN, cùng quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta từ đại hội VI đã mở ra mô hình kinh tế mới đó là mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đặc biệt Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: " Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phỉa cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Nền kinh tế mới đó là phải xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế có sự tiết của nhà nước. Trong nền kinh tế "mở" đó không thể thiếu được kinh tế hàng hoá đó là một mô hình kinh tế kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế. Song trong nền kinh tế hàng hoá không thể tránh khỏi những khó khăn khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay  

Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC104 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế của đất nước đối với khu vực và thế giới, Việt Nam cũng đang trên con đuờng xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo chủ nghĩa Mac- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn đạt được những mục tiêu trên thì phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định. Trong đó, vai trò quản lí kinh tế của Nhà nước cần đuợc tăng cường và đổi mới sao cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Phát triển kinh tế cũng phải đi đôi với bảo đảm công bằng văn minh và tiến bộ xã hội. Tăng cuờng vai trò quản lý kinh tế là một tất yếu khách quan để đạt đuợc mục tiêu do Đảng ta đã đề ra, đó là: Các nguồn vật chất – tài chính của xã hội đuợc huy động tốt hơn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân đồng thời phát huy nền dân chủ XHCN, thực hiện công bằng xã hội, tạo điều kiện và môi trưòng thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ và xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm “Cơ chế thị truờng có sự quản lí của Nhà nước theo định hưóng XHCN trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế.” Như vậy, việc nghiên cứu vai trò và các biện pháp tăng cưòng vai trò kinh tế của Nhà nước là hết sức quan trọng trong điều kiện hiện nay.

KTNN và vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

KTNN và vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC103 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau năm 1991 cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa(XHCN) ở Đông Âu, nền kinh tế – chính trị thế giới đã chuyển từ trạng thái hai cực đối đầu sang nền kinh tế chính trị đa cực, đa phương hoá, đa dạng hoá theo xu hướng hoà bình, đối thoại, hợp tác phát triển cùng có lợi. Trong bối cảnh đó, từ việc nhận thức đúng đắn trong thực tiễn và lý luận với mục tiêu đưa nước ta phát triển hội nhập với khu vực và thế giới. Ngay từ đại hội Đảng VI, Đảng ta đã xác định “Chuyển đổi mô hình kinh tế chỉ huy mang nặng tính bảo thủ trì trệ sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ”. Hiện nay nền kinh tế nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với các thành phần kinh tế tập thể tạo nên một nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Sau 17 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nền kinh tế hàng hoá phát triển rất sôi động mở ra cho nước ta nhiều vận hội mới, đồng thời cũng phát sinh không ít khó khăn và thách thức. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những khó khăn trước mắt. Báo cáo chính trị đại hội Đảng IV một lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà Nước ta “thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần” và nói rõ thêm “Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.

Khoa học - Công nghệ trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam  

Khoa học - Công nghệ trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC102 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Ta đã biết đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay khi độc lập dân tộc gắn kiền với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và triệt để.Đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó, trong quá trình đi lên CNXH chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Theo quan điểm của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định“Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát triển mạnh mẽ phải”tự lực cánh sinh” thì đó chính là một trình tự hợp lí để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiên nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới khoảng thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút ngắn lại, xu hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đối với các nước phát triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau trong đó có nước ta cần phải làm ngững gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà các nước đi trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của các nước NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.

Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay  

Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC101 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau 10 năm thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN; các thành phần kinh tế được bình đẳng và tự do cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Cơ chế kinh tế mới đã có những tác động tích cực. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã tăng nhanh cả số lượng lẫn chất lượng. Song do nền kinh tế nước ta còn khó khăn, khả năng tích luỹ từ nội bộ còn thấp, trừ một số doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là có qui mô lớn, còn lại các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chiếm tỉ lệ trên 95% trong hệ thống các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt nam. Do qui mô nhỏ và các khó khăn của nền kinh tế cho nên các doanh nghiệp ở nước ta thường xuyên bị thiếu vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là năm 1996, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều bị thiếu vốn trầm trọng trong khi đó đã xảy ra một nghịch lí là vốn ứ đọng ở các Ngân hàng thương mại tới hàng ngàn tỉ đồng. Rõ ràng doanh nghiệp thiếu vốn không phải do Ngân hàng thiếu vốn mà là do doanh nghiệp chưa có các giải pháp khai thác các nguồn và huy động vốn một cách hợp lí. Thiếu vốn sản xuất kinh doanh đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, sự thiệt hại và kìm hãm càng trở nên sâu sắc hơn khi toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước bị thiếu vốn vì rằng doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nó nắm giữ các ngành then chốt và phần lớn các nguồn lực của xã hội. Do đó, việc tìm ra các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đã trở nên cấp thiết !

Phát triển Khoa học Công nghệ ở Việt Nam  

Phát triển Khoa học Công nghệ ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC100 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay khi độc lập dân tộc gắn kiền với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và triệt để. đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó, trong quá trình đi lên CNXH chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.theo quan điểm của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định“Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát triển mạnh mẽ phải”tự lực cánh sinh” thì đó chính là một trình tự hợp lí để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới khoảng thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút ngắn lại, xu hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đói với các nước phát triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau trong đó có nước ta cần phải làm ngững gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà các nước đi trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của các nước NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.

Vấn đề công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam  

Vấn đề công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC099 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hội nghị đại biểu toàn quốc ban chấp hành trung ương Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1990) đã nhận định rằng: “Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục những thành tựu quan trọng đã đạt được, đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước sang một thời kỳ phát triển mới đẩy tới một bước công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước” Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp chúng ta lực mới để tăng trưởng nhanh tốc độ phát triển, không những thế nhờ có hiện đại hoá chúng ta có điều kiện đi tắt, đón đầu đó là bài toán tổng hợp để giải bài toán phát triển đất nước. Nghiên cứu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong nền kinh tế là một vấn đề bức xúc, nóng bỏng trong nhiều năn nay và được đông đảo các nhà nghiên cứu, trong đó có đội ngũ sinh viên quan tâm. Nghiên cứu nhằm nhận thức rõ từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy sử dụng tối đa mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế phục vụ sự công nghiệp hoá -hiện đại hoá . Cùng với sự nỗ lực cố gắng chung của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Là một công dân tương lai của đất nước, em mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình nghiên cứu các vấn đề cơ bản về công nghịêp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. Nội dung của đề tài gồm các chương sau: Chương 1 – Tính tất yếu và khách quan của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. Chương 2 – Nội dung các vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. Chương 3 - Kết luận chung về quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam.

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam  

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội với việc nhận thức tính tất yếu của con đường lựa chọn xã hội chủ nghĩa vào Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC097 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước). Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất yêú phải đổi mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam  

Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC096 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Một xã hội có những chính sách về phát triển kinh tế ngày một toàn diện và hiệu quả hơn sao cho đòi sống tinh thần và vật chất của con người trong xã hôị dó ngáy một ổn dịnh phong phú ,nhưng để có được một xã hội như vậy không phảI tự nhiên mà có .Thực tế đã chứng minh rằng việc phát triển kinh tế là một việc vô cùng khó khăn ,đó là cuộc chạy đua sôi động giữa các nước trên thế giới nhằm đạt được một vị trí cao hơn trên truường quốc tế .Muốn thực hiện điều đó thì nhất quyết trong chính sách phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đòi hoỉ phảI được dựa trên một nền tảng cơ sở lý thuyết vững chắc về các quy luật kinh tế ,đặc biệt là quy luật giá trị .Vì sao lạu nói quy luật giá trị là quy luật quan trọng nhất ? và đối với nứơc ta hiện nay nền kinh tế thị trướng liệu có chịu ảnh hưởng của quy luật này ? Nếu trả lời được câu hỏi trên hay nói cách khác là nghiên cứu quy luật giá trị thì ta nhận định đươc thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay từ đó có được những lý luận chung về những tồn tại .những tiến bộ .cũng như hướng phát triển. Mặt khác tác dụng của quy luật giá trị tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản suất mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất XHCN và vào khả năng nhận thức vận dụng và tổ chức các hoạt động kinh tế thực tiễn của nhà nước. Hơn nữa tác dụng của quy luật giá trị là tác dụng khách quan ,khả năng con người nhận thức và vận dụng quy luật sẽ quy định tính chất tiêu cực hay tích cực mà việc vận dụng nó sẽ mang lại cho xã hội,vì vậy nghiên cứu để có thể áp dụng quy luật giá trị một cách khoa học hiệu quả tận dụng một cách tối ưu nhất những ưu điểm của nó khi tham gia vào nền kinh tế đất nước chính là mục đích của em khi chọn đề tài này – với vai trò là một thành viên tương lai của nền kinh tế việt nam. Về mặt lý thuyết , quy luật giá trị được phát biểu như sau : “sản xuất trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động cần thiết “. Trên thực tế thì quy luật giá trị mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng do mang các tính chất sau : + Điều tiết và lưu thông hàng hoá: trong sản xuất quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giưa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá + Kích thích lực lượng sản xuất phát triển :người sản xuất muốn đứng vững phải liên tục đổi mới kỹ thụât vì kỹ thuật tiên tiến thì giá trị cá biệt của hàng hoá sẽ thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá như vậy người sản xuất mới có lãi nhất + Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên :sự tác động của quy luật giá trị bên cạnh những tích cực kể trên còn dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá nhất là những người sản xuất nhỏ Vì nền kinh tế Việt Nam cung được xây dựng trên cơ sở của quy luật giá trị nên tất yếu các khía cạnh của nền kinh tế cũng mang dáng dấp của những đạc điểm trên và dù được thể hiện trực tiếp hay gián tiếp nó cũng nói lên được một phần nào đó thực trạng của quá trình vận dụng ,thấy được những ưu khuyết điểm để từ đó có những phương pháp khắc phục ,nhằm đạt được nhưng hiệu quả tốt hơn trong quá trình phát triển

Vận dụng lýluận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam  

Vận dụng lýluận học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC095 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong gần 10 năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được những thành tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển thì tất yếu phải đổi mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

Học thuyết của Mác về hình thái kinh tế - xã hội và vấn đề cần xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam  

Học thuyết của Mác về hình thái kinh tế - xã hội và vấn đề cần xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC094 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ lịch sử xa xưa, trải qua bao thời gian đến nay dù ở thời đại nào, xã hội nào thì hình thái kinh tế xã hội cũng luôn luôn tồn tại và phát triển hoặc tụt lùi theo sự phát triển của xã hội đó. Khi ta nhìn vào vấn đề hình thái kinh tế - xã hội của một nước nào đó ta sẽ thấy xã hội đó lớn mạnh và phát triển hoặc ngược lại. Nói đến hình thái kinh tế xã hội là ta phải nói đến một chính thể toàn vẹn cơ cấu phức tạp chứ không thể nói đến những thứ riêng lẻ được, nó phải đan xen nhau, có quan hệ không thể tách rời nhau được và chính mặt toàn vẹn này thì ta mới có được một hình thái kinh tế - xã hội cần có và phải có hình thái kinh tế - xã hội vạch rõ kết cấu cơ bản, phổ biến của mọi xã hội, qui luật vận động và phát triển tất yếu của xã hội đó, vậy ta phải đi nghiên cứu sâu về những vấn đề tác động trực tiếp là yếu tố chính để xây dựng lên hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu về lực lượng sản xuất vì đó là nền tảng vật chất - kĩ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, về quan hệ sản xuất quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, kiến trúc thượng tầng, quan hệ gia đình, xã hội. Đây chính là những điểm mấu chốt quan trọng nhất mà ở thời kì nào từ trước kia đến bây giờ cũng phải quan tâm và coi đó là mục tiêu chính để phát triển những mặt đó không cái nào có thể tách rời cái nào được. Không thể không quan tâm đến lực lượng sản xuất mà chỉ quan tâm đến quan hệ sản xuất được, cũng như kiến trúc thượng tầng và các mối quan hệ dân tộc, gia đình, xã hội. Những mặt cơ bản này phải luôn tồn tại song song và phải có mối quan hệ, cũng là quan trọng, nếu một trong những mặt đó mất đi thì xã hội sẽ phát triển theo cách khác chứ không như bây giờ. Hình thái kinh tế - xã hội là nên tảng cốt lõi của mọi xã hội, dù xã hội đó là xã hội lạc hậu, nghèo đói hay văn minh giàu có thì các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng... vẫn luôn tồn tại và phát triển với mức phát triển khác nhau nhưng mục đích chính của những nước đó là thúc đẩy phát triển mọi mặt trong xã hội để xã hội đó phát triển hơn nữa. Muốn vậy thì mỗi xã hội phải có đầy đủ các mặt đã nêu ở trên với sự quan hệ chặt chẽ và đoàn kết cùng xây dựng các quan hệ, cơ sở vật chất, yếu tố xã hội đi từ lực lượng sản xuất vì đó là nền tảng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất luôn gắn liền với lực lượng sản xuất vậy phải tìm ra những điểm tích cực và điểm yếu của 2 mặt này để khắc phục và đi sâu hơn từ đó mới hợp thành kiến trúc thượng tầng để hình thành nên những quan điểm pháp lí, đạo đức, triết học... Đi sâu vào nghiên cứu và phát triển các thế mạnh của đất nước của xã hội, tìm phương hướng giải quyết các mâu thuẫn trong các mặt đó để mỗi hình thái kinh tế - xã hội ngày càng phát triển đi lên.

VIỆC VẬN DỤNG HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM  

VIỆC VẬN DỤNG HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC093 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Loài người đã trải qua các phương thức sản xuất: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Mỗi một xã hội đều có những mối quan hệ sản xuất riêng tương ứng với mỗi lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng nên. Từ khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, các thế lực đối nghịch của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa xã hội càng có dịp vụ cáo, xuyên tạc hòng bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó lý luận hình thái kinh tế xã hội là một điểm lý luận bị công kích từ nhiều phía. Hơn lúc nào hết những người cách mạng phải đấu tranh với các quan điểm thù địch nhằm bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận Mác về hình thái kinh tế xã hội nói riêng.

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta  

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC091 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển cao của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu ở các nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Từ đại hội IV của Đảng ( năm 1986 ) đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới ,chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều kiện kinh tế thị trường hơn 10 năm qua, đất nước đã vượt qua bao khó khăn, thử thách giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên trong các Văn kiện của Đảng tại đại hội lần thứ VII,VIII đã đề cập đến 4 nguy cơ thách thức đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” có thể coi là nguy cơ lớn nhất. Vì vậy khả năng định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta có trở thành hiện thực hay không trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng và nhà nước là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sư phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì không thể giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế lớn có tầm cỡ quốc gia, quốc tế . Vì thế kết hợp hài hoà giữa sự vận hành của cơ chế thị trường với sự điều tiết của nhà nước là cần thiết và là giải pháp mang lại thành công trên con đường phát triển. Trong mối quan hệ đó, nhà nước giữ vai trò định hướng tạo “hành lang “ pháp lý và môi trương đầu tư để các chủ thể có thể có thể phát huy tính năng động, sáng tạo của mình.

Hãy chứng minh sức lao động là hàng đặc biệt, ý nghĩa nghiên cứu vấn đề  

Hãy chứng minh sức lao động là hàng đặc biệt, ý nghĩa nghiên cứu vấn đề Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC090 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta dần dần chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nhiều thị trường của nước ta đã từng bước được hình thành và phát triển, song trình độ phát triển còn thấp so với các nước và sự phát triển của nó còn thiếu đồng bộ. Một trong những thị trường được hình thành đó là thị trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động). Cho đến nay vẫn còn chưa có nhận thức rõ và thống nhất về thị trường sức lao động. Trước đổi mới, chúng ta hầu như không thừa nhận thị trường sức lao động. Trong điều kiện hiện nay, việc thừa nhận nó là tất yếu. Bộ Luật Lao động đã được ban hành ngày 23/6/1994 và tiếp đó là một loạt các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Bộ Luật Lao động đã có những tác động tích cực đến việc hình thành khuôn khổ pháp lý cho thị trường này. Sức lao động được coi là một hàng hoá đặc biệt, tiền lương được coi là mức giá của sức lao động và được quyết định bởi sự thoả thuận giữa hai bên. Cả người lao động và người sử dụng lao động đều có những quyền cơ bản đảm bảo cho việc tham gia thị trường lao động.

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần  

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC089 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ năm 1986 Việt Nam thực hiện việc chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách kế hoạch và các công cụ khác . Quá trình chuyển tiếp đó đã đạt được những kết quả tuy là bước đầu nhưng đáng khích lệ. Chúng ta đã bắt đầu kiềm chế được lạm phát trong điều kiện kinh tế phải đối phó với nhiều khó khăn và nguồn viện trợ từ bên ngoài rất hạn chế. Năm 1986 tỉ lệ lạm phát là 487% năm 1994 đạt mức hai con số: 14%. Tốc độ trượt giá đã từ 15 -20% một tháng vào đầu năm 1989, giảm xuống còn dưới 4% một tháng năm 1992. Trong nông nghiệp từ chỗ hàng chục năm liên tục phải nhập khẩu lương thực thì nay chúng ta đã đủ lương thực để phục vụ nhu cầu trong nước và lại còn xuất khẩu một lượng đáng kể. Năm 1992, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo, đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Thái lan. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với các nước cũng tăng nhanh, mở rộng buôn bán với nhiều bạn hàng. Xuất khẩu năm 1989 - 1991 tăng 28% năm, thu hút ngày càng nhiều công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam với trên 400 dự án, vốn đăng ký khoảng 3 tỷ USD. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ đã xoá bỏ chế độ tem phiếu và phân phối theo định lượng. Có thể nói, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, áp dụng chính sách kinh tế mở đối với cả trong nước và ngoài nước là bứơc mở đầu đổi mới cơ bản về đường lối xuyên suốt mọi lĩnh vực hoạt động hay nói một cách khác cơ cấu kinh tế mới bắt đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới này bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam còn gặp không ít những khó khăn. Trước hết đó là nguy cơ tụt hậu do: Sự thiếu triệt để của công cuộc cải cách còn đang trong thời kỳ tranh tối tranh sáng nên chỉ cần một bước sơ hở có thể dẫn nền kinh tế đến chỗ sụp đổ. Việt Nam đang là một nước nghèo kém phát triển, công nghiệp còn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nhất là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quá yếu kém, không đồng bộ dân số đông (hơn 70 triệu dân) tăng nhanh, nhiều người không có việc làm, mức sống còn thấp, nhiều vấn đề về văn hoá - xã hội cần giải quyết. Tốc độ phát triển của các quốc gia trong khu vực rất cao, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á là một khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi nôỉ nhất. Thứ hai là còn tồn tại những mất cân đối do: Sự phát triển thiếu toàn diện của cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực tế cho thấy trong số các doanh nghiệp quốc doanh chỉ có 1/3 số doanh nghiệp phát triển nhưng sự phát triển của họ đi liền với sự đầu tư của nhà nước về vốn, đất đai và tín dụng 2/3 số doanh nghiệp còn lại làm ăn thua lỗ.

Hàng giả  

Hàng giả Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC088 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay trên thị trường Việt Nam xuất hiện rất nhiều cơ sở sản xuất và buôn bán hàng giả. Điều đó đã làm nhiều nhà doanh nghiệp phảI lo sợ .Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho nền sản xuất nội địa phát triển chậm . Nói đến hàng giả có lẽ không ai trong chúng ta là không biết tới và thậm chí cũng đôi ba lần là nạn nhân của hàng giả. Hàng giả vẫn ngang nhiên chen vai hích cánh cùng hàng thật ở mọi lúc, mọi nơi, bất kỳ một thứ gì cũng có nguy cơ bị làm giả từ hàng tiêu dùng, vật tư cho đến thuốc chữa bệnh... Hàng giả gây tác hại trực tiếp cho con người như ảnh hưởng an toàn tính mạng, an toàn sức khoẻ, và nguy hại hơn là làm mất uy tín của nhà sản xuất kinh doanh. Do đó hàng giả vẫn đang là vấn đề bức xúc với các cơ quan nhà nước, nỗi lo của nhà sản xuất kinh doanh và sự bất bình của người tiêu dùng. Thực tế những hậu quả do nạn sản xuấtvà buôn bán hàng giả trong các doanh nghiệp Việt Nam gây ra là hết sức nghiêm trọng do đó đặt ra cho chúng ta một yêu cầu cấp bách là phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất để diệt trừ tận gốc nạn sản xuất và buôn bán hàng giả.

Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và vận dụng vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay  

Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và vận dụng vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC086 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ Đại hội Đảng VI (1986) Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ cần phải đổi mới nền kinh tế đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1992 đường lối đó đã được cụ thể hoá. Khi nghiên cứu xã hội Tư bản Các Mác phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội Tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động và phát triển của xã hội Tư bản. Từ đó, Các Mác đã đi đến dự báo về sự thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Sau này, khi nghiên cứu vấn đề này Lênin đã chỉ ra sự thay thế đó không thể tiến hành một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình lâu dài phức tạp. Ta biết rằng vấn đề kinh tế là vấn đề tiên quyết làm thay đổi các vấn đề khác do vậy Đảng ta chỉ ra rằng sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là một vấn đề cực kì quan trọng trong giai đoạn hiện nay: giai đoạn đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn thì cần hiểu rõ và áp dụng sáng tạo quy luật trên vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Do vậy việc nghiên cứu quy luật này là một vấn đề hết sức cần thiết.

Phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta mà đại hội Đảng IX đã nêu và ích lợi của việc sử dụng nó vào việc phát triển KT-XH ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam  

Phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta mà đại hội Đảng IX đã nêu và ích lợi của việc sử dụng nó vào việc phát triển KT-XH ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC085 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mô hình kinh tế tập trung quan niêu, bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả tập trung là cuộc cách mạng kinh tế-xã hội sâu sắc vào cuối những năm 1970 đầu những năm 1980. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh giá tình hình đất nước, đặc iệt là trong lĩnh vực kinh tế ,luôn luôn ở tình trạng trì trệ , chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, tình hình trì trệ ấy có nguyên nhân khách quan khách quan như nền kinh tế đang gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ trong chiến tranh nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mô hình kinh tế không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Chính những khó khăn của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích tình hình nguyên nhân , tìm tòi các giải pháp , trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần, đây là mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta, vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của Lênin về “chính sách kinh tế mới” vào điều kiện lịch sử ở nước ta và thế giới ngày nay, đặc biệt là từ khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông âu sụp đổ. Thực hiện mô hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản cấp thiết là tăng nhanh lực lượng sản xuất , từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở vật chất và xã hội cho việc từng bước hoá nền sản xã hội.

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHÚNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY  

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHÚNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC084 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay vấn đề phát triển kinh tế là một vấn đề rất cần thiết, tất yếu đối với mọi quốc gia . Nhưng ở mỗi nước khác nhau thì đi bằng các con đường khác nhau do dựa vào các tiềm lực của chính mình . Đối với Việt Nam , từ khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường thì Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng : phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu để phát triển nền kinh tế . Do nước ta có xuất phát thấp và đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu , người dân có trình độ kĩ thuật thấp do đó phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thực tiễn khách quan mà cần phải thực hiện theo nó . Với Việt Nam thì việc phát triển kinh tế gắn liền với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ , do đó đề tài sẽ cho ta thấy những thực trạng ( thời cơ , tồn đọng)của doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó rút ra được các hướng đi đúng nhất , các giải pháp tối ưu nhất nhằm nâng cao vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Phân phối trong nền kinh tế thị trường  

Phân phối trong nền kinh tế thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC082 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Quá trình tái sản xuất là sự kết hợp hai hoà giữa các khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó phân phối là một khâu quan trọng và không thể thiếu được của quá trình này. Nó nối liền sản xuất với trao đổi, tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Không những thế, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, do nền kinh tế còn nhiều thành phần kinh tế nên cũng còn có nhiều hình thức lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu là còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các hình thức lợi ích kinh tế đó. Một trong những yêu cầu của nền kinh tế là kịp thời phát hiện ra mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thể hiện thông qua quan hệ phân phối. Từ vai trò quan trọng của phân phối trong quá trình phát triển kinh tế thì việc nghiên cứu quan hệ phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với nền kinh tế nước ta hiện naycòn đang trong quá trình phát triển. Muốn phát triển nền kinh tế thị trường nước ta theo định hướng XHCN thì việc giải quyết các quan hệ phân phối là hết sức cần thiết để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội. Nghiên cứu phân phối là một phần trong quá trình ngiên cứu kinh tế ở tầm vĩ mô, đó là một vấn đề lớn lao. Do trình độ, khả năng và thời gian còn hạn chế nên trong bài viết này em không thể nghiên cứu được hết. Phạm vi nghiên cứu của bài viết này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản nhất về phân phối, các hình thức phân phối. Cụ thể là nghiên cứu các hình thức phân phối ở nước ta, đặc biệt là phân phối theo lao động và các hình thức thu nhập hay phân phối thu nhập.

Thực trạng và giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài  

Thực trạng và giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC081 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động trên thị trường quốc tế, tốc độ toàn cầu hoá và tự do hoá thương mạI diễn ra nhanh chóng, nhiều quốc gia và nhiều công ty đang nắm trong tay lượng vốn dự trữ khổng lồ có nhu cầu đầu tư nước ngoài. Đây là đIều kiện thuận lợi đối với các nước thiếu vốn có nhu cầu đầu tư lớn. Vì vậy đầu tư nước ngoàI chiếm một vị trí rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay đối với không chỉ những nước phát triển mà còn quan trọng đối với những nước đang phát triển. Đặc biệt là Việt Nam đầu tư nước ngoàI nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đạI hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, đầu tư xây đầu tư nước ngoàI dựng kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ và sức mạnh cạnh tranh cảu hàng hoá. Trong bối cảnh hiện nay, các nứơc đang phát triển có thể tận dụng mọi nguồn lực của thế giới, tiếp thu được những tinh tuý của nhân loạI, những cống hiến và những phát minh vĩ đạI của các bậc thế hệ đI trước, nhằm đI tắt đón đầu trên con đuờng phát triển và thu hẹp đầu tư nước ngoàI dần khoảng cách với các nước đI trước. Khi đó đầu tư nước ngoàI có vai trò như một phương tiện đắc lực đẻ thựcn hiện chủ trương trên, là một quốc gia đang trưởng thành và phát triển đồng thời đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đạI hoá , Việt Nam cần huy động tối đa mọi nguồn lực. ĐạI hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàI là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu đầu tư nước ngoàI, bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoàI là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH phát triển của đất nước” .

Sự hình thành nền kinh tế thị trường  

Sự hình thành nền kinh tế thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC080 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nước ta đi lên chủ nghiã xã hộibỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa là tất yếu lịch sử .Điều này hoàn toàn phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử nhân loại. Nhưng vấn đề là chúng ta lựa chọn mô hình kinh tế nào để xây dựng LLSX hiện đại cho CNXH.Trước đây cũng giống như các nước XHCN khác chúng ta đã lựa chọn mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung để xây dựng CNXH.Nhưng thực tế đã chứng minh là mô hình này không phù hợp nó làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ các quy luật kinh tế khách quan bị vi phạm làm cho động lực phát triển kinh tế bị thủ tiêu .Đứng trước tình hình đó Đảng ta trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm thực tế và lý luận chủ nghĩa Mác –Lê nIn tư tưởng Hồ Chí Minh đã đề ra đường lôí kinh tế mới với nội dung quan trọng : Chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN .Đây là bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đã vận hành được hơn 10 năm .Nó đã thu được nhiều thành tựu to lớn gIúp nền kinh tế của chúng ta thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế dần đi vào ổn định và phát triển .Đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao .Tuy vậy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cũng bộc lộ những khuyết tật có ảnh hưởng không tốt đã đặt ra cho nhiều người câu hỏi : có hay không kinh tế thị trường định hướng XHCN? KTTT định hướng XHCN là gì và những đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ? Để trả lời những câu hỏi trên đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu lý luận cùng làm rõ về mặt lý luận nhận thức cũng như thực tiễn và đều kết luận sự lựa chọn KTTT định hướng XHCN của Đảng và nhà nước ta đã chọn là một mô hình kinh tế của đất nước trong tiến trình đổi mới và phát triển là hoàn toàn đúng đắn

Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam  

Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC079 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực , vốn và tài nguyên . Đối với Việt Nam , cả hai nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều rất hạn chế nên nguồn lực con người đương nhiên đóng vai trò quyết định .So với các nước láng giềng chúng ta có lợi thế đông dân , tuy nhiên nếu không được qua đào tạo thì dân đông sẽ là gánh nặng dân số còn nếu được qua đào tạo chu đáo thì đó sẽ là nguồn nhân lực lành nghề ,có tác động trực tiếp lên tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Một đội ngũ nhân lực lành nghề và đồng bộ cũng tạo nên sức hấp dẫn to lớn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam . Vì thế báo cáo chính trị đại hội Đảng toàn quốc lần 8 đã chỉ rõ : “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu , phương hướng chung trong nhiều năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ”. Báo cáo chính trị đại hội Đảng toàn quốc lần 9 cũng nêu : “Phải tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta có thể và cần rút ngắn thời gian . Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố , nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người .Điều khẳng định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn lực với tư cách là điều kiện , tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định

Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dung vao nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay  

Tính quy luật hình thành kinh tế thị trường sự vận dung vao nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC078 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả ở các nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này được khoảng hơn 15 năm nay. Và có những thành tựu mà chúng ta đã đạt được cũng như có những khó khăn, những vấn đề gặp phải cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới. Điều này rất đáng được quan tâm. Và hiện nay, chúng ta cần hiểu rõ về tình hình kinh tế nước ta và tình hình kinh tế của thế giới. Nhất là đối với sinh viên khi nghiên cứu về kinh tế thì đề tài này giúp cho chúng ta trả lời được những câu hỏi: "Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình kinh tế thị trường ?", "Vì sao mô hình kinh tế thị trường lại đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia?", "Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào?", "Kinh tế thị trường bao gồm những nhân tố nào cấu thành nên và hoạt động của nó ra sao?", "Bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam ra đời và quá trình hoạt động của nó diễn ra như thế nào?", "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các nước khác trên thế giới?", "Cách thức mà chúng ta sử dụng kinh tế thị trường trong việc phát triển kinh tế?"… Hàng loạt những câu hỏi này sẽ luôn xuất hiện khi chúng ta nghiên cứu về kinh tế. Đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được thêm về bản chất, tính chất cũng như nguồn gốc hình thành của nền kinh tế . Ngoài ra còn giúp cho chúng ta biết thêm được về thực tế, những nhân tố, những quy luật nào tác động đến kinh tế thị trường. Điều đó thực sự bổ ích và nó sẽ luôn hỗ trợ cho chúng ta trong quá trình học tập, nghiên cứu và nâng cao kiến thức, tích luỹ được của bản thân. Từ đó giúp cho chúng ta có được cái nhìn tổng quát hơn, thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta một tư duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội xẩy ra hiện nay.

Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam  

Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC077 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lý luận, hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã được thừa nhận Lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nối chung của xã hội loài người Song, ngày nay. Đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, lý luận đó đang được phê phán từ nhiều phía. Sự phê phán đó không phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy làm rõ thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết . Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau phải tập chung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội , việc vận dụng lý luận đóvào điều kiện Việt Nam; vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.

Công ty cổ phần  

Công ty cổ phần Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC076 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế, những năm gần đây nền kinh tế kế ạch hoá tập trung ở nước ta đã từng bước chuyển sang kinh tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển.Trong điều kiện cơ chế quản lí thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước đã bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng. Làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu nhà nước và cải cách khu vực kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả,vai trò của nó theo tinh thần các Nghị quyết Đại hội 6 và 7 của Đảng? Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết những vấn đề này là tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước nhẵm đa dạng hoá sở hữu đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Trên thực tế, công ty cổ phần và vận động cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không phải là những hiện tượng kinh tế xã hội xa lạ đối với nền kinh tế thế giới.Công ty cổ phần xuất hiện từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đầu thế kỷ 18 công ty cổ phần đã trở thành hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến ở hầu hết các nuớc có nền kinh tế thị trường phát triển.Một câu hỏi được đặt ra là hình thái công ty cổ phần có phải là mô hình doanh nghiệp thích hợp với những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước ta hiện nay hay không?Người viết chọn đề tài này không ngoài mục đích nghiên cứu, tìm tòi những luận cứ, cơ sở khoa học để trả lơì câu hỏi trên cũng như mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào tiến trình đổi mới kinh tế đất nước.

Mô hình công ty mẹ công ty con  

Mô hình công ty mẹ công ty con Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC075 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
- Nền kinh tế hiện nay đang trên đà phát triển, nhưng sự phát triển đó thể hiện không đồng đều. Cụ thể là ở các nước phát triển thì nền kinh tế phát triển mạnh trong khi đó các nước đang và kém phát triển thì nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về nguồn vốn và khoa học công nghệ. Vì vậy muốn đưa các nước kém và đang phát triển đi nên thì diều cần thiết cần có sự liên kết kinh tế giữa các nước kém và đang phát triển với các nước phát triển. Những nguyên nhân trên đã nói nên sự cần thiết phải có một mô hình kinh tế phù hợp mô hình công ty mẹ công ty con là một điển hình. Đây là một mô hình nhằm giúp đỡ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. - Một vấn đề đặt gia cơ bản hiện nay đó là giải pháp kinh tế để mở rộng mô hình công ty mẹ công ty con ở Việt Nam. Một nước giầu tài nguyên và con người chúng ta có trí sáng tạo cao, muốn hoà nhập với thế giới để tiếp thu với nền khoa học hiện đại đồng thời phát huy tính sáng tạo. Chúng ta đã và đang thí điểm mô hình công ty mẹ công ty con trên một số doanh nghiệp ở các lĩnh vực dầu khí, điện lực và trên lĩnh vực thông tin. để việc thực hiện tốt mô hình công ty mẹ công ty con thì cần hiểu rõ mô hình công ty mẹ công ty con, đặc điểm điều kiện hình thành.

Đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong nền kinh tế Việt Nam  

Đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong nền kinh tế Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC074 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo nên tính đa dạng của nền kinh tế nhiền thành phần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần là hai hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia.

Đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong nền kinh tế Việt Nam  

Đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong nền kinh tế Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC073 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng . Thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt. Từ xã hội cũ sang xã hội mới XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Cách mạng vô sản thành công vang dội và kết thúc khi đã xây dựng xong cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thới kỳ xây dựng từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành nên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo nên tính đa dạng của nền kinh tế nhiền thành phần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần là hai hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia.

Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta  

Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC072 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm. Tăng thu nhập cho cư dân nông thôn tạo tiền đề đẻ giải quyết hàng loạt vấn đề về chính trị - xã hội của đất nước, đư nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định phải “Đặc biệt coi trọng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”.Trong những năm gần đây nhờ có đổi mới nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.Tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đướng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt.Do vậy việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu cấp thiết. Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá là một quá trình lâu dài , cần được tiến hành tuần tự, không nóng vội.Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự than mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thôn cũng như của cả nước.Vì vậy nếu ta không nhìn nhận và phân tích một cách sâu sắc quá trình chuyển đổi và phát triền của nền nông nghiệp hiện nay thì sẽ khó có thể tìn ra những giải pháp vi mô cũng như vĩ mô đúng và phát huy được hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá và hiện nền nông nghiệp của đất nước.

Phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và ích lợi của việc sử dụng cơ cấu nhiều thành phần đó vào phát triển Kinh tế – Xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.  

Phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và ích lợi của việc sử dụng cơ cấu nhiều thành phần đó vào phát triển Kinh tế – Xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC071 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trên thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây dựng mô hình kinh tế có sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi. Riêng đối với nước ta, sau một thời gian dài duy trì mô hình kinh tế tập trung đã thấy sự không phù hợp của nó. Chính vì vậy, năm 1986, Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội nhằm đưa đất nước dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng vào những năm cuối thập kỷ 80. Đây là cái mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của kinh tế hàng hoá nhiều thàn phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tiếp đó đại hội Đảng VII, VIII, IX tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hoá bằng các chính sách, cơ chế nhằm kiên trì xây dưng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Hiện nay nền kinh tế nhiều thành phần nước ta đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế này đan xen vào nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và ích lợi của nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển Kinh tế – Xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Biết những mặt mạnh để phát huy và những mặt hạn chế cần khắc phục, chúng ta sẽ xây dựng được một nền kinh tế phát triển hoàn thiện và vững chắc, đưa đất nước ra khỏi đói nghèo, phát triển toàn diện về mọi mặt, sánh nganh cùng các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Vai trò của Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN  

Vai trò của Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC070 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nước ta bắt dầu dổi mới nền kinh tế từ những năm chín mươi cho đến nay đã qua mười năm .Trong dó vai trò chủ đạo, dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế Nhà nước luôn được Đảng quan tâm, coi trọng và đã đạt được những thành tựu bước đầu rất khả quan cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, cả đường lối đối nội và đối ngoại của đất nước.Để phát triển nền kinh tê theo định hướng XHCN trong Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và quuyết định, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể trở thành cơ sở vững chắc của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo nền kinh tế”. Có như thế mới phát huy được đặc diểm của kinh tế XHCN Nhằm thể hiện rõ vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi kinh tế Nhà nước phải đổi mới để giữ vững vai trò chủ đạo, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu những giải pháp để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay là hết sức quan trọng. Với tầm quan trọngcủa nó em đã chọn đề tài :

Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia  

Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC069 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội,lịch sử hình thành và phát triển môn kinh tế chính trị cho thấy những nhận thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu của ktct.chủ nghĩa trọng thương cho rằng đối tượng nghiên cứu của môn kinh tế chính trị là lĩnh vực lưu thông mà chủ yếu là ngoại thương.những quy luât kinh tế đã chi phối trực tiếp đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.quan niệm của chủ nghĩa mác về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị:kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng nhất là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt trong xã hội.phương pháp của ktct sử dụng phép duy vật biện chứng và những phương pháp khoa học chung như mô hình hoá các quá trình xây dựng các giả thiết....ktct có chức năng rất quan trọng trong nhận thức ,tư tưởng đồng thời nó cũng có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội .Trong công cuôc đổi mới của đất nước hiện nay,nghiên cứu ktct góp phần hình thành những tư duy kinh tế mới.Nước ta là một nước đang phát triển còn rất lạc hậu so với những nước trong khu vực đối với ngành kinh tế chưa có những chính sách hợp lý nên chưa thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng là từ các công ty độc quyền hay là các công ty xuyên quốc gia.

''Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội, sự vận dụng của Đảng ta trong đổi mới đất nước  

''Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội, sự vận dụng của Đảng ta trong đổi mới đất nước Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC068 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam trong sự phát triển của Đông Á và Đông Nam Á, hay nói rộng hơn là vòng cung Châu Á-Thái Bình Dương, hiện nay đang thu hút được nhiều người trong giới lãnh đạo và giới kinh doanh trên thế giới. Vì sao Việt Nam có sự chú ý đó? chắc chắn là do Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và ngày càng sâu sắc về cơ sở hạ tầng và kiến chúc thượng tầng xã hội. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen - quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tình phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng đò hỏi của cơ sở hạ tầng. Đã có rất nhiều văn kiện trính trị và luận văn khoa học đề cập sâu sắc về công cuộc đổi mới này. Vì vậy, với tư cách là một sinh viên còn trên giảng đường, em chỉ mong bài viết này có thể nêu một số vấn đề có tính chất khái quát về công cuộc đổi mới này và thấy được sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam.

Cổ phần hóa doanh nghiệp  

Cổ phần hóa doanh nghiệp Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC067 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh tế Nhà nước mà thành phần chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) đang đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân hiện nay .Nhưng bên cạnh những thành tựu và đóng góp to lớn của các DNNN trong suốt quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta thì hiện nay các DNNN đang phải đối đầu với nhiều khó khăn thử thách như: tình trạng làm ăn thua lỗ, công nghệ lạc hậu ,sức cạnh tranh trên thị trường kém ,yếu kém trong quản lý tài sản cũng như nhân lực ....Thì một yêu cầu cấp thiết đặt ra là làm sao phải năng cao hiệu quả kinh tế của các DNNN mà vẫn giữ vững vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế quốc dân . Một giải pháp đúng đắn đưa ra từ đầu những năm 90 của thế kỷ20,dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin cũng như quan điểm của Đảng và Chính phủ ta chính là cổ phần hoá các DNNN .Trong nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VII(11-1991)nêu rõ :”Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ ,rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp “.Bắt đầu thực hiện cổ phần hóa DNNN từ năm 1992 sau hơn 10 năm thực hiện thì quá trình cổ phần hoá DNNN đã thu được những thành tựu đáng kể nhưng cũng không ít vướng mắc cần những biện pháp khắc phục kịp thời để tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa ở nước .

Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay  

Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC066 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có gia tăng mạnh mẽ gắn hiền với sự phát triển của khoa học - công nghệ sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số… Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược, hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề quan trọng của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, hội nhập sẽ đón nhận được những cơ hội, thuận lợi phát triển song kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với các thách thức.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta  

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC065 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công cuộc xây dựng xã hội mới phải được tiến hành toàn diện trên các mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và những con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Xây dựng cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta, nền sản xuất nhỏ, là thuật thủ công là chủ yếu... công nghiệp hoá là quá trình chủ mang tính quy luật để tạo ra cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Chính vì vậy tại đại hội VIII Đảng ta khẳng định: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên CNXH - là nhiệm vụ sắp tới của dân tộc ta. Những thành tựu sau 10 năm đổi mới, đặc biệt là kết quả thực hiện vượt mức những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm1991 - 1995 đã đưa nền kinh tế nước ta khỏi khủng hoảng và tạo được nhứng tiền đề cho phép chuyển sang giai đoạn của sự phát triển đất nước. Cũng tại đại hội lần thứ VIII của Đảng công sản Việt Nam xuất phát từ nguyện vọng và ý chí của nhân dân. Từ điều kiện và khả năng thực tế của đất nước trong bối cảnh và xu thế của thời đại ngày nay đã khẳng định quyết tâm phấn đấu đưa nước Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào khoảng năm 2020.

Phân tích những nội dung và tiền đề của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay  

Phân tích những nội dung và tiền đề của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC064 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào, ở bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế suy đến cùng đều được bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phương thức sản xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nước chỉ là ở mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và trên thực tế chỉ một số ít nước công nghiệp hoá thành công. Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ. Trong cơ cấu xã hội vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa  

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC062 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hội nghị đại biểu toàn quốc ban chấp hành trung ương Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-1990) đã nhận định rằng: “Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục những thành tựu quan trọng đã đạt được, đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước sang một thời kỳ phát triển mới đẩy tới một bước công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước” Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp chúng ta lực mới để tăng trưởng nhanh tốc độ phát triển, không những thế nhờ có hiện đại hoá chúng ta có điều kiện đi tắt, đón đầu đó là bài toán tổng hợp để giải bài toán phát triển đất nước. Nghiên cứu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong nền kinh tế là một vấn đề bức xúc, nóng bỏng trong nhiều năn nay và được đông đảo các nhà nghiên cứu, trong đó có đội ngũ sinh viên quan tâm. Nghiên cứu nhằm nhận thức rõ từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy sử dụng tối đa mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế phục vụ sự công nghiệp hoá -hiện đại hoá .

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay  

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC061 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định phải "đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn" Trong những năm gần đây nhờ có "đổi mới" nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt. Do vậy đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu rất cấp thiết. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một quá trình lâu dài, cần được tiến hành theo cách tuần tự, không nóng vội, không thể tuỳ tiện. Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân, mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thôn cũng như của cả nước. Vì vậy nếu ta không nhìn nhận và phân tích một cách sâu sắc quá trình chuyển đổi và phát triển của nền nông nghiệp hiện nay thì sẽ khó có thể tìm ra những giải pháp vi mô cũng như vĩ mô đúng và phát huy được hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền nông nghiệp của đất nước.

Đầu tư nước ngoài  

Đầu tư nước ngoài Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC059 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong những năm qua,Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong phát triển kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm, giải quyết tốt vấn đề lương thực, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu..Tuy nhiên, Việt Nam cũng còn đang phải đối phó với những thách thức to lớn trong quá trình phát triển. Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thiếu vốn, thị trường , công nghệ và những kinh nghiệm trong quản lý để xây dựng và phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment – FDI ) là một hình thức của đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đi kèm với nó là sự chuyển giao về vốn, công nghệ, thị trường và các kinh nghiệm trong quản lý đáp ứng nhu cầu của các nước đang phát triển, đồng thời góp phần tạo việc làm cho người lao động. Với việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, trong hơn 10 năm qua Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 36 tỷ USD. Đây là nguồn lực quý báu để xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần vào tăng GDP và kim ngạch xuất khẩu.Nước ta đã và đang tiến hành từng bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới.Bên cạnh việc tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương về các mặt thương mại, đầu tư và trao đổi trên nhiều lĩnh vực khác theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá , từng bước đảm bảo thực hiện quyền tự do hợp tác kinh doanh với nước ngoài đối với mọi doanh nghiệp , nước ta tham gia đầy đủ hơn vào cơ chế đa phương nhằm thu hút tối đa nguồn lực bên ngoài cho phát triển, thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế thị trường. Vì thế, trong bối cảnh tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam phát triển.Để có thể tận dụng được các cơ hội, chúng ta phải chủ động hội nhập, xây dựng chiến lược cơ cấu thích ứng vào nền kinh tế thế giới để nền kinh tế nước ta gắn kết ngày càng mạnh hơn,dần trở thành một thực thể hữu cơ của kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.

Lợi nhuận  

Lợi nhuận Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC058 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mac đã cống hiến cả cuộc đời của mình vào một xã hội tốt đẹp, một xã hội công bằng văn minh đó chính là CNXH. Ông đã để lại cho nhân loại rất nhiều tác phẩm. Hai phát kiến vĩ đại nhất của Mác là học thuyết giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hai phát kiến này đã làm thay đổi nhận thức của toàn nhân loại. Với hai phát kiến này, Mac đã biến chủ nghĩa xã hội không tưởng thành CNXH khoa học. Cho tới nay gần hai thế kỷ đã trải qua nhưng hai phát kiến vĩ đại này vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Đối với nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì vấn đề nhận thức và vận dụng các học thuyết của Mac - Đặc biệt là học thuyết GTTD, để làm kim chỉ nam cho các hoạt động để đi đến đích cuối cùng là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Xuất phát từ nhận thức trên với nền kinh tế nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì không ai khác, không quốc gia nào khác mà tự tìm ra đường lối phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện tình hình hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ nguồn gốc, bản chất của các yếu tố bên trong của nền kinh tế đặc biệt là những yếu tố chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Một trong những yếu tố chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi nhuận? nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường... Đây cũng chính là những vấn đề cấp thiết, tất yếu đòi hỏi phải có lời giải đáp nhanh chóng, chính xác phù hợp với tình hình để đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay

Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường  

Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC057 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam - một đất nước được cả thế giới biết đến với những chiến công vang dội trên mặt trận bảo vệ tổ quốc ở vài thập kỳ trước. Còn hiện nay trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21 - Việt Nam đang là một nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới, với thu nhập bình quân đầu người trên dưới 300 USD. Những chiến thắng trên mặt trận không thể làm ra được chiến công về kinh tế, sách lược chiến trường không thể là chiến lược về kinh tế. Một thời chúng ta đã ngộ nhận xem lợi nhuận là cái gì đó là phạm trù không có ở CNXH, chúng ta đã cho rằng sản xuất là chỉ để phục vụ chứ không phải vì lợi ích vì mục đích lợi nhuận. Ngày nay trong thời kỳ quá độ lên CNXH chúng ta đang đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thì lợi nhuận là thước đo nhạy cảm để xem xét đánh giá sự tồn tại và sự phát triển của các doanh nghiệp; Nếu doanh nghiệp (DN) đó làm ăn thua lỗ thì thị trường sẽ loại doanh nghiệp đó ra khỏi sân khấu kinh tế, và nếu ngược lại thì doanh nghiệp đó tiếp tục phát triển. Lợi nhuận phải thực sự từ năng suất - chất lượng - hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh chân chính, từ tài năng quản lý sản xuất kinh doanh (KD) hiện đại mà tạo ra giá trị lợi nhuận về cả kinh tế, văn hoá - một truyền thống văn hoá cốt cách của người Việt Nam. Hơn bao giờ hết, lợi nhuận (P) là sự sống còn của doanh nghiệp, là động lực phát triển.

Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận  

Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC056 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Năm 1986,Việt Nam chuyển cơ chế kinh tế từ kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường một loại những phạm trù mới xuất hiện khác hẳn với nền kinh tế tập trung bao cấp trước đây đặc biệt là vấn đề lợi nhuận. Chúng ta đã một thời coi lợi nhuận là một cái gì đó xấu xa, là một phạm trù hoàn toàn xa lạ với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nước ta đang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì lợi nhuận là vấn đề trung tâm. Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân khi bắt tay vào sản xuất kinh doanh đều muốn thu lợi nhuận. Lợi nhuận là mục đích của mọi ngành nghề, mọi nhà kinh doanh. Lợi nhuận là phần thưởng cho sự lao động, sáng tạo, năng động của con người trong qúa trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận có vai trò nhất định trong nền kinh tế hiện nay. Vậy nguồn gốc, bản chất lợi nhuận là gì và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay như thế nào là vấn đề mà đề án này đề cập tới.

Học thuyết của Máct tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta  

Học thuyết của Máct tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC055 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Để hiểu thêm về tư bản chúng ta tìm hiểu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Lý thuyết này là lý thuyết vận động của tư bản. Tư bản luôn vận động qua 3 giai đoạn khác nhau và ở mỗi một giai đoạn đó thì nó thể hiện các chức năng và hình thức khác nhau. Quá trình vận động của tư bản là quá trình vận động không ngừng diễn ra thường xuyên và lặp đi lặp lại. Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có ý nghĩa rất to lớn đối với việc quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Chúng ta đi từ một cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý mới đó là cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta không tránh khỏi những vướng mắc, những sai phạm. Do đó, chúng ta rất cần một cơ sở lý luận để định hướng. Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản rất cần thiết đối với vấn đề quản lý doanh nghiệp của nước ta hiện nay. Vì vậy chúng ta phải nghiên cứu nó thật kỹ, thật tốt để ứng dụng vào thực trạng của chúng ta.

  Trang trước  1 2 3 4 5 6 7 8  Trang sau
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)