Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Tài liệu hay
Các tài liệu thuộc danh mục Tài liệu về khối Kinh tế
Mã tài liệu
Ngày đăng
Dự báo cung lao động Việt Nam (số lượng và cơ cấu) giai đoạn đến năm 2010  

Dự báo cung lao động Việt Nam (số lượng và cơ cấu) giai đoạn đến năm 2010 Tài liệu được cập nhật ngày: 21-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA205 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu đư¬ợc trong quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những ng¬ười đ¬ược hư¬ởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI I. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của nguồn lao động Việt Nam 1. Một số khái niệm cơ bản a. Dân số: Là tổng số người đang tồn tại và phát triển trong phạm vi một lãnh thổ nhất định (một nước, một châu lục hay toàn cầu…) tại một thời điểm xác định. b. Nguồn lao động (hay lực lượng lao động). Là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm), và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm, nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm; những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình và những người thuộc tính khác(nghỉ hưu trước tuổi quy định). Cần biết là trong nguồn lao động chỉ có bộ phận những người đang tham gia lao động là trực tiết góp phần tạo ra thu nhhập của xã hội 2. Đặc điểm của nguồn lao động ở Việt Nam hiện nay a. Số lượng lao động tăng nhanh Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động. Ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2%trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Theo số liệu tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước ta là 76,32 triệu người, trong đó khoảng 39 triệu người là lực lượng lao động chiếm 51% dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. b. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp.Ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tông số lao động . Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế c. Trình độ chuyên môn của người lao động thấp Ở Việt Nam số người không biết chữ hiện nay còn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong lực lượng lao động xã hội, số người lao động phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung học được đào tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên nghiệp, chỉ có 9% trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ thuật. Các chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật giỏi còn ít. d. Còn một bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng. Như trên đã phân tích, việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp-thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế Ở các nước đang phát triến đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị. ở nước ta, năm 1998, chỉ tính riêng khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp là 6,85%tăng hơn 0,84%so với năm 1997. Số lao động thiếu việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay trên 8%, thậm chí còn có nơi lên tới 50-60%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm khoảng 27,65%. Tính chung cho cả nước, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng cho hoạt động kinh tế năm 1998 là 71,13%. Thực tế đó cho thấy, vấn đề giải quyết việc làmđang là áp lực nặng nề đối với các nươc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được xem là vấn đề kinh tế-xã hội rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 của Việt Nam đã khẳng định “Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để đinh hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ’’. Trên phạm vi rộng, giải quyết việclàm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; còn theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. 3. Khái quát về thực trạng nguồn lao động Việt Nam (1996-2003) 3.1. Qui mô lực lượng lao động của Việt Nam thời kỳ 1996-2003 3.2. Cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam thời kỳ 1996-2003 a. Cơ cấu theo trình độ văn hóa Tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình độ văn hoá vẫn thuộc loại thấp, thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế phân theo trình độ văn hoá(%) 1996 1997 1998 Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Chưa biết chữ 5,8 62,3 5,1 61,6 3,8 62,4 Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 56,4 20,3 55,5 18,5 56,1 Đã tốt nghiệp cấp I 27,8 49,7 28,1 49,2 29,4 45,3 Đã tốt nghiệp cấp II 32,1 48,3 32,4 48,1 32,3 48,3 Đã tốt nghiệp cấpIII 13,5 44,1 14,1 44,0 16,0 44,2 Nguồn: Thực trạng lao động - Việc làm ở Việt Nam, nxb Thống kê 1996-1998 Theo số liệu của bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, là kết quả của chương trình xoá mù chữ do Chính phủ thực hiện trong những năm qua. Số lao động chưa tốt nghiệp cấp I trong hai năm 1997-1998 đẫ giảm từ 20,3% xuống 18,5% nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao và tốc độ chậm, trong khi đó cơ cấu lao động theo trình độ cấp I, II, III chuyển biến còn rất chậm. Thực tế là tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp I năm 1996 là 27,8% nhưng đến năm 1998 cũng mới chỉ là 29,4%; lao động tốt nghiệp cấp III năm 1996 là 13,5% đến năm 1998 là 16%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp III chiếm một tỷ lệ không cao trong toàn lao động, do đó cơ hội tìm việc làm là rất khó khăn. b. Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: Hiện nay ở nước ta đang tồn tại tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao(88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, thể hiện ở tháp sau: Hình 1: Tháp lao động của Hình 2: Tháp lao động của Việt Nam Các nước công nghiệp Các nhà khoa học Kỹ sư Chuyên viên kỹ thuật Lao động lành nghề Lao động không lành nghề Hình 1 Hình 2 Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%). Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu công nghiệp cần tuyển lao động có kỹ thuật thì lao động của nước ta chỉ đáp ững được rất ít. Ví dụ: Khu chế xuất Linh Trung cần tuyển 7000 công nhân nữ có trình độ tay nghề bậc 3/7 trở lên nhưng chỉ đáp ứng được 1500 người. Khu chế xuất Tân Thuận cũng ở tình trạng tương tự: cần tuyển 15000 công nhân kỹ thuật, ta chỉ đáp ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao động kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, cơ cấu lao động của ta hiện đang rơi vào tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay trong LLLĐ, số lao động có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất hợp lý. Năm 1997 là 1/1,5/ 1,7 và đến năm 1999 tỷ lệ này càng chệch hướng thêm nữa (1/1,2/0,92), nó gần như “lộn ngược” với các nước khác.. Vì thế, chúng ta đang còn ở trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng. Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo, trong 10 năm (1986-1996), số học sinh học nghề giảm 35%, số giáo viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%, trong khi đó có 70-80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có việc làm, riêng nghành y hiện nay có trên 3000 bác sỹ không có việc làm.

các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh Khách sạn – Du lịch và các biện pháp tiết kiệm chi phí trong các doanh nghiệp Khách sạn – Du lịch ở nước ta hiện nay  

các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh Khách sạn – Du lịch và các biện pháp tiết kiệm chi phí trong các doanh nghiệp Khách sạn – Du lịch ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 20-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA129 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Các khoản tiền tiết kiệm không bao giờ là vô tận và nó sẽ hết vào một ngày nào đó. Giá trị của chúng là sẽ đem lại cho gia đình chúng ta sự thoải mái và đảm bảo về mặt tài chính. Chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy tự do về tài chính nếu không từ bỏ thói quen sa sỉ và thành lập cho mình thói quen tiết kiệm. Với một doanh nghiệp thì việc tiết kiệm các khoản chi tiêu càng khó khăn hơn nữa và càng cần thiết hơn nữa vì mỗi quyết định đều liên quan đến cả một tổ chức lớn gồm rất nhiều những con người lao động gắn cuộc sống của mình với doanh nghiệp. Kể từ năm 1986, khi Việt Nam chính thức mở cửa thị trường và có sự thông thoáng về các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ sau 1990 đến nay ngành Du lịch Việt Nam đã và đang khởi sắc.

Chính sách xoá đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và giải pháp.  

Chính sách xoá đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và giải pháp. Tài liệu được cập nhật ngày: 20-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA125 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong lịch sử của xã hội loài người, đặc biệt từ khi có giai cấp đến nay, vấn đề phân biệt giầu nghèo đã xuất hiện và đang tồn tại như một thách thức lớn đối với phát triển bền vững của từng quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện đại. Đói nghèo và tấn công chống đói nghèo luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, bởi vì giầu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của một quốc gia. Đói nghèo thường gây ra xung đột chính trị, xung đột giai cấp, dẫn đến bất ổn định về xã hội, bất ổn về chính trị. Mọi dân tộc tuy có thể khác nhau về khuynh hướng chính trị, nhưng đều có một mục tiêu là làm thế nào để quốc gia mình, dân tộc mình giầu có. Trong thực tế ở một số nước cho thấy khi kinh tế càng phát triển nhanh bao nhiêu, năng suất lao động càng cao bao nhiêu thì tình trạng đói nghèo của một bộ phận dân cư lại càng bức xúc và có nguy cơ dẫn đến xung đột.

Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT  

Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT Tài liệu được cập nhật ngày: 20-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA094 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN từ năm 1995 và bắt đầu thực hiện chương trình hội nhập AFTA từ năm 1996. Với trình độ phát triển ở mức thấp hơn, lại đang trong quá trình chuyển đổi, nền kinh tế Việt Nam không thể tránh khỏi những thách thức lớn trong quá trình thực hiện cam kết của mình với AFTA.Đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu nước ta cần phải tận dụng tối đa những lợi thế mà quá trình hội nhập vào AFTA mà quan trọng nhất là trong quá trình thực hiện việc giảm thuế quan xuất khẩu CEPT và hạn chế đến mức thấp nhất có thể những bất lợi do CEPT mang lại. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình tự do hoá thương mại của các nước thành viên ASEAN theo chương trình xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN để rút ra những bài học kinh nghiệm, đề ra những biện pháp phù hợp để Việt Nam hội nhập AFTA thành công và tăng cường hơn nữa quá trình xuất khẩu và các nước ASEAN là một vấn đề cấp thiết hiện nay.

Chính sách thù lao lao động hợp lý và động lực lao động  

Chính sách thù lao lao động hợp lý và động lực lao động Tài liệu được cập nhật ngày: 20-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA083 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Vấn đề quan trọng nhất của hoạt động tạo động lực đó là trả công lao động. Đây là một vấn đề được nhiều cấp nhiều ngành quan tâm. Trong cơ chế thị trường vấn đề trả công lao động luôn là vấn đề quan trọng. Tiền lương trong các DNNN hiện nay đang thấp hơn tiền lương trong các DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Vì vậy để hạn chế tình trạng di chuyển lao động có trình độ, có tay nghề cao từ khu vực kinh tế quốc doanh sang khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi nhà nước phải có các chính sách, chế độ trả công lao động sao cho thích hợp hiệu quả đối với người lao động. Đặc biệt để sử dụng lao động có hiệu quả mỗi tổ chức phải xây dựng cho mình một phương pháp trả công lao động nhằm kích thích người lao động làm việc tích cực hơn, tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc cao hơn làm cho tổ chức ngày càng đứng vững và phát triển trên thương trường kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.

Mối quan hệ giữa chức năng kiển toán với trách nhiệm của kiển toán viên về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính  

Mối quan hệ giữa chức năng kiển toán với trách nhiệm của kiển toán viên về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính Tài liệu được cập nhật ngày: 20-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA080 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cũng như mọi hoạt động có ý thức khác của con người, đặc biệt với tinh chất của một hoạt động chuyên sâu cao về nghề nghiệp, kiển toán cũng có chức năng hoạt động của riêng mình nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và giám sát quá trình sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trên các báo cáo tài chính(BCTC). Vì vậy, chất lượng kiểm toán BCTC không những là thước đo về tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán mà chất lượng BCTC còn dược thể hiện bằng việc đưa ra lời nhận xét đúng đắn về tính trung thực hợp lý và hợp pháp các thông tin được kiểm toám trên BCTC nhằm phục vụ cho công tác quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước của các cấp chính quyền, các hoạt động quản trị doanh nghiệp, đối với các nhà quản lý, các hoạt động đầu tư tài chính và các quan hệ giao dịch khác.Như vậy chất lượng BCTC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định trong quản lý kinh tế, nếu kết quả kiểm toán đưa ra những nhận xét không phù hợp về các thông tin dược kiểm toám trên BCTC sẽ dẫn rới những hậu quả khó lường trong hoạt động kinh tế

Một số vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện Si Ma Cai  

Một số vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở huyện Si Ma Cai Tài liệu được cập nhật ngày: 19-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA047 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Si MA Cai là huyện mới được tái lập với 13 xã đều thuộc diện các xã đặc biệt khó khăn, tách ra từ huyện Bắc Hà - tỉnh Lào Cai. Nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh là huyện biên giới với Trung Quốc, giao thông đi lại khó khăn. Núi đá là chủ yếu. Tài nguyên khoáng sản nghèo nàn. Dân cư chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số sống bằng nghề nông làm nương, rẫy, trồng rừng. Sản xuất ở đây phần lớn còn mang tính tự phát, tự cung, tự cấp với trình độ thấp kém. Kỹ thuật canh tác lạc hậu. Trong những năm đổi mới, cùng với sự thay đổi về kinh tế, cơ cấu kinh tế nông thôn có chuyển dịch nhưng rất nhỏ và chậm chạp trong khi đó, nhu cầu về đa dạng các sản phẩm, sản phẩm có giá trị kinh tế cao, ngày một tăng lên. Do vậy việc chuyển đổi một phận diện tích đất trồng ngô, trồng lúa sang chăn nuôi. Và trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế cao, kết hợp hài hoà giữa trồng trọt, chăn nuôi phát triển một số ngành nông sản phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá là một đòi hỏi cấp bách.

Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN  

Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Tài liệu được cập nhật ngày: 18-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA021 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định một bước ngoặt vĩ đại đối với đất nước đặc biệt là việc quyết định đưa nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Để khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã và đang khuyến khích thành lập các doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm đối tác và thị trường, đòi hỏi nhà nước phải có sự hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.

Một số vấn đề về quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp công nghiệp  

Một số vấn đề về quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp công nghiệp Tài liệu được cập nhật ngày: 18-06-2012
Soạn: REG TAILLIEU DA020 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và xu hướng hội nhập của các nền kinh tế quốc gia và khu vực đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước nguy cơ bị cạnh tranh gay gắt bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Chính sách cạnh tranh về giá sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao khi mà đời sống của người dân tăng lên, lúc đó họ sẵn sàng trả giá cao để có được sản phẩm có chất lượng cao. Do vậy trong tương lai các doanh nghiệp sẽ áp dụng hình thức cạnh tranh bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ là chủ yếu. Do đó các doanh nghiệp của Việt Nam muốn cạnh tranh thắng để tồn tại trên thị trường không còn ảnh hưởng nào khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ để tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, việc này chỉ có được thực hiện nếu như doanh nghiệp áp dụng tốt các hệ thống quản lý chất lượng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.

Tri thức và nền kinh tế tri thức  

Tri thức và nền kinh tế tri thức Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T022 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại tin học.... Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới. Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức.

Sinh viên và thất nghiệp  

Sinh viên và thất nghiệp Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T021 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ ngày đất nước ta có sự đổi mới về kinh tế , chuyển từ kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường nhiều thành phần, tự do hoạch động và hạch toán nên đất nước cũng có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu về kinh tế cũng như xã hội. Nhưng xét đến tính hai mặt của vấn đề thì cơ chế thị trường bên cạnh những mặt được thì cũng còn những mặt chưa được : Một trong những mặt chưa được đó là những mặt đó là tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng, vấn đề xã hội mà gần như không có trong nền kinh tế bao cấp. Đất nước muốn phát triển thì phải đi lên từ lao động, mà sinh viên là lực lượng lao động trẻ, năng động, dồi dào và được đào tạo. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cần được sử dụng một cách hợp lý hiệu quả. Tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Vấn đề này nguyên nhân do đâu, phải chăng là: - Trình độ của sinh viên không đáp ứng được yêu cầu ngày một cao của công việc, do chất lượng đào tạo thấp của các trường đại học,cao đẳng ? - Do lượng cung lớn hơn cầu về nguồn lao động ? - Do chính sách của nhà nước chưa hợp lý trong việc sử dụng lao động ? - Do sự chủ quan của sinh viên không muốn công tác tại những vùng xa, khó khăn ? Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có một quan điểm khác nhau. Điều này xảy ra là vì về mặt nhận thức chủ thể chưa nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn ở một phía nhất định.

Bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở  

Bản sắc dân tộc trong nền kinh tế mở Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU T001 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước , nền văn hoá Việt Nam đã hình thành và phát triển . Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ , kiên cường , nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn vản sắc của dân tộc , chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam . Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước . Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ , dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình , chẳng những không bị đồng hoá , mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho dân tộc , lấy sức ta mà giải phóng cho ta . Phát huy truyền thống văn hoá dân tộc , dưới sự lãnh đạo của Đảng , là nhân lên sức mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn , thử thách , xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội , giữ vững quốc phòng , an ninh , mở rộng quan hệ đối ngoại , tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta đI vào thế kỷ XXI . Công cuộc đổi mới toàn diện , đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước , xây dựng chủ nghĩa xã hội , thực hiện thắng lợi mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh” , đòi hỏi chúng ta phảI xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc , xây dựng nền tảng tinh thần của dân tộc ta , coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội . Đảng và Nhà nước ta đang tiến tới xây dựng một nền kinh tế mở ,hội nhập với Thế giới . Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại biến chuyển nhanh chóng , đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá , sự hội nhập khu vực và thế giới với một tốc độ rất nhanh , từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng giao lưu giữa các nền văn hoá . Trong khi chú trọng giữ gìn , phát huy các truyền thống văn hoá tinh thần tốt đẹp của dân tộc , văn hóa Việt Nam cần từng bước mở rộng giao lưu quốc tế , tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới và thời đại . Nền văn của chúng ta sẽ đa dạng hơn , phong phú hơn , tiên tiến hơn nhờ hấp thụ được những yếu tố lành mạnh của văn hoá thế giới .

Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay  

Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC185 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, mô hình sản xuất nào thì cũng cần có sự phối hợp giữa các hình thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Phân phối luôn thể hiện một vị trí hết sức quan trọng. Nó phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay không tốt lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân. Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối nối liền sản xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng tiêu dùng ,dịch vụ thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị trương diễn ra thông suốt. Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao động ,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như các tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế ¬- xã hội ở nước tađang đòi hỏi có sư nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quan hệ phân phối ở việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách .

Nguyên nhân suy thoái kinh tế Nhật những năm 90  

Nguyên nhân suy thoái kinh tế Nhật những năm 90 Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC180 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Không chỉ là nước có nền văn hoá tiến bộ mà Nhật Bản còn là một nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới chỉ sau Mỹ. Có được những thành quả như vậy cũng bởi Nhật Bản là quốc đảo,bao bọc bởi vô vàn hòn đảo lớn, nhỏ do vậy đã tạo cho con người Nhật Bản một ý chí rất ham học hỏi và muốn vươn lên. Tuy là một nước nghèo tài nguyên nhưng Nhật Bản không phải dựa vào tài nguyên dồi dào như các nước khác để làm giàu mà Nhật Bản làm giàu bằng chính bộ óc sáng tạo và đôi bàn tay cần cù của mình. Trong hai cuộc chiến trành thế giới Nhật Bản là nước đi xâm chiếm thuộc địa, muốn thống trị và vơ vét của cải. Nhưng sau chiến tranh thế giới thứ hai thì Nhật Bản bị thiệt hại nặng nề, nhất là về kinh tế, nhưng sau đó Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của mình và ngày càng phát triển vời tốc độ tăng trưởng thần kỳ. Nhưng đến thập niên 90 nền kinh tế của Nhật Bản bị suy thoái trầm trọng, thậm chí khủng hoảng nặng nề, cụ thể: Năm 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 GDP (%) 4.6 4.7 4.9 5.5 2.9 0.4 0.3 0.6 1.4 2.9 -0.7 -1.9 0.5 1.2 Nguồn: 1987-1997 Nikkei Shimbun và Japan Research Quaterly, Spring 1997 và Winter 1996/1997_1998-2000: Monthly Economic Report, October 2000 ( số liệu 2000 là dự báo) EPA, Japan.

Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay  

Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC176 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi căn bản, sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Kinh tế quốc doanh nay được gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước cũng được đổi mới. Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nước là một trong những vấn đề lý luận kinh tế trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn lãnh đạo đất nước xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay lý luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả về nhận thức lý luận và thực tiễn. Ở Việt Nam thì kinh tế nhà nước là một bộ phận có vai trò quyết định trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước thì khu vực doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chủ yếu có vị trí đặc biệt. Nhưng thực trạng của khu vực doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay thì chưa thể hiện được vai trò then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước không năng động bằng khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành doanh nghiệp nhà nước chưa thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nước có thể thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất yếu là ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý

Những vấn đề về kinh tế thị trường ở Việt Nam  

Những vấn đề về kinh tế thị trường ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC174 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mỗi một con người Việt Nam đều có một lòng tự hào về dân tộc rất mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người, chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông nghiệp 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống 1,5%...Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc phục được những khó khăn trước mắt. Những tưởng đó là con đường đúng đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc họp lần thứ VI của Đảng, quốc hội quyết định chuyển hướng nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phải chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ của đề án này tôi xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà tuổi trẻ cần làm để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước trong thời gian tới  

Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước trong thời gian tới Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC173 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong nền kinh tế thị trường phân phối thu nhập giữ một vai trò hễt sức quan trọng. Nó là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Phân phối thu nhập nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ với thị trường các yếu tố sản xuất làm cho sự vận động của cơ chế thị trường diễn ra thông suốt. Một xã hội muốn ổn định và phát triển thì cần đảm bảo được những lợi ích của cá nhân trong xã hội, trong đó phân phối đảm nhận vai trò phân chia lợ ích cho từng cá nhân. Giải quyết vấn đề phân phối thu nhập có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Thực tiễn ở Việt Nam đã chỉ rõ, trong quá trình đi tới ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, trước hết chúng ta phải cải cách lưu thông, phân phối. Nhờ tháo gỡ những ách tắc trong lĩnh vực này mà nền kinh tế nướ ta đã và đang dần thoát khỏi tìng trạng khủng hoảng, lạm phát từng bước có sự tăng trưởng phát triển.Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN thì hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương, lợi nhuận, lợi tức ... đã nảy sinh, đòi hỏi phải có những cải cách thường xuyên, liên tục để phù hợp với những nguyên lý kinh tế kinh tế thị trường cũng như những đòi hỏi cấp thiết của xã hội đang đặt ra. Vì vậy việc nghiên cứu quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cấp thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Hơn thế nữa, trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ ở nớc ta, do nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế vận động trong cơ chế thị trường nên cũng có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế. Việc phát hiện và giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện qua phân phối. Do đó việc nghiên cứu quan hệ phân phối được xem là chìa khoá để tháo gỡ cho các vấn đề liên quan đến việc phân chia các lợi ích trong xã hội. Xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của phân phối trong xã hội. Bài luận này với mục đích nghiên cứu quan hệ phân phối ở Việt Nam trong những năm vừa qua từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ ở nước ta ta thời gian tới, đã thể hiện rõ quan điểm của cá nhân em trong quá trình nghiên cứu quan hệ phân phối. Hy vọng rằng nó sẽ góp phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta nhằm đạt được mục tiêu ‘’ Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,,.(1)

Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá  

Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá Tài liệu được cập nhật ngày: 07-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC171 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ cùng với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực đã góp phần thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hoá không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà còn cả trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế đã và đang mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho các dân tộc trên thế giới khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình để tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách thức gay gắt, nhất là đối với các nước đang phát triển. Vì thế để không bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng cường sức cạnh tranh kinh tế . Hơn lúc nào hết quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta. Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng. Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với Việt Nam  

Hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC151 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.

Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay  

Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC149 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành vầ phát triển của nền kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần (CTCP ) và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ) là tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường . Hình thức CTCP đã xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII , mà trước tiên là ở nước Anh sau đó là nước Pháp . Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế , nhất là trong giai đoạn mà cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra thì CTCP phát triển rất mạnh mẽ. Đến những năm đầu thế kỷ XX thì CTCP đã trở thành hình thức kinh doanh rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Với Việt Nam chúng ta, từ khi đất nước được thống nhất , do phải giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh . Mặt khác do cơ chế kinh tế và xuất phát điểm của chúng ta thấp. Chính vì vậy, mà việc khôi phục nền kinh tế tuy đã đạt được nhiều thành công, song cũng còn nhiều hạn chế. Do đó mà đại hội Đảng lần thứ VI (12/ 1986) đã đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt nam. Đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, Nó không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế và quan hệ sở hữu mà còn làm xuất hiện hình thức tổ chức kinh tế mới đó là CTCP. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Hiến pháp 1992 đều khẳng định: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành đó, kinh tế quốc doanh được xác định giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế khác hoạt động theo luật và bình đẳng trước pháp luật Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đối với nước ta là tương đối mới. Trước đây chưa có Luật doanh nghiệp thì nó hoạt động theo Luật công ty. Khi Luật doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được xác định đầy đủ và rõ ràng hơn, là một trong 4 loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp. Cũng chính từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh hơn và ngày càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần rất có ưu thế trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho sự hoạt động của thị trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển .

Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân  

Thực trạng và một số giải pháp để phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC148 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là thời kỳ chuyển tiếp từ nền kinh tế cũ lạc hậu lên nền kinh tế mới xây dựng công hữu. Do đó đòi hỏi cần phải tập trung phát triển nền kinh tế thị trường với sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Vì có như vậy mới đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu và bắt kịp với tốc độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì chúng ta không đơn thuần tập trung phát triển nền kinh tế thị trường thuần tuý mà phải đặt dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Với vai trò quan trọng "kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, khuyến khích tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật có lợi cho quốc kế dân sinh" - Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém và phải đương đầu với nhiều thách thức và khó khăn về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ, chất lượng, giá thành sản phẩm. Một số doanh nghiệp vốn lớn, công nghệ tiên tiến, còn phần lớn vẫn là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý doanh nghiệp còn yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường yếu; thêm vào đó là những khó khăn vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về khả năng tiếp cận và xử lý thông tin về môi trường pháp lý… Vì thế, kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước như huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, giải quyết và tạo công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Bên cạnh những mặt tích cực khu vực kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta bộc lộ những yếu kém, hạn chế đòi hỏi phải có sự can thiệp từ phía Nhà nước về các chính sách

Đẩy mạnh Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam  

Đẩy mạnh Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC145 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Khoảng 20, 30 năm về trước Việt Nam còn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang đầy tính bảo thủ, quan liêu, bao cấp. Trong cái khuôn khổ chật hẹp đó, các doanh nghiệp luôn bị gò bó, hạn chế về mọi mặt, vì thế, việc mở rộng hay phát triển dường như là điều không tưởng đối với họ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh chủ trương mới của Đảng và Nhà nước đã tạo ra một sức bật mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp tư nhân, nhưng còn các doanh nghiệp nhà nước ? Với những tư tưởng vẫn còn mang nặng tính bảo thủ, do vẫn còn được bao cấp bởi Nhà Nước và nhiều mặt hạn chế khác, các doanh nghiệp nhà nước đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động cũng như phát triển của mình. Hơn thế nữa doanh nghiệp nhà nước lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp ở nước ta vì thế cùng với quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước doanh nghiệp nhà nước , Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một quá trình tất yếu của Việt Nam – một quốc gia với nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, bởi vì việc sắp xếp và chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần tiến lên hình thành các tập đoàn, công ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.

Tội phạm tham nhũng - một số vấn đề lý luận, thực tế và những ảnh hưởng tới nền kinh tế, một số biện pháp đấu tranh phòng chống  

Tội phạm tham nhũng - một số vấn đề lý luận, thực tế và những ảnh hưởng tới nền kinh tế, một số biện pháp đấu tranh phòng chống Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC143 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Bước vào thế kỷ thứ 21, tất cả thế giới đang vận hanh theo xu hướng mới: hoà bình, đối thoại, hội nhập và cùng phát triển. Các ranh giới ngăn cách về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc sẽ dần được xoá bỏ. Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một bước đang phát triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập nhất là về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Bằng việc phát huy cao độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắn tiến những bước lớn trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con đường ấy, đó là các tội phạm về tham nhũng (mà theo ngôn ngữ của người dân là những con sâu mọt đang đục khoét xã hội) cũng đang ngày càng gia tăng về mức độ phổ biến, quy mô và thủ đoạn. Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và nền kinh tế đang chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đôi của Chính phủ các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể. Mặc dù tội phạm tham nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm và có tính chất truyền thống nhưng việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống loại tội phạm này luôn là một vấn đề bức xúc đối với mọi nền kinh tế trên thế giới và đối với sự phát triển của nền Việt Nam nói riêng. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình sự nói riêng.

Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường  

Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC138 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu kém. Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành viên của ASEAN, APEC, sắp trở thành thành viên của WTO, rồi mở cửa hội nhập AFTA vào năm 2006) thì nước ta cần có một nền kinh tế với sức cạnh tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt được mục đích trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn như vậy chúng ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế với các đối tượng cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát huy các lợi thế cạnh tranh. Chúng ta cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn. Với mục tiêu như vậy thật không dễ dàng cho Việt Nam, khi mà nền kinh tế hiện nay không có gì làm đảm bảo, các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, còn trì trệ, tình trạng thang nhũng và thất thoát vốn nhà nước tăng cao. Các doanh nghiệp nhà nước không phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế khi mà nhận được nhiều hỗ trợ từ phía nhà nước, ngành nghề kinh doanh, chế độ tín dụng,… Trong tay nắm hầu hết các nguồn lực quan trọng như: 100% mỏ dầu, 80% rừng, 90% lao động được coi trọng, có phần xem nhẹ ưu điểm của các doanh nghiệp tư nhân. Vừa qua, ngày 13/10/2004, chúng ta đã thành lập được hiệp hội các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, điều đó cho thấy có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của tư nhân, doanh nghiệp tư nhân đang dần nhận được sự quan tâm từ phía nhà nước và đóng vai trò quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế.

Lý luận chung về thị trường  

Lý luận chung về thị trường Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC136 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam là một quốc gia nhỏ bé và còn non trẻ thuộc vùng Đông Nam Châu Á, một dân tộc anh hùng với bao phen vào sinh ra tử để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, và nay cũng đang chứng minh với toàn thế giới họ cũn là một dân tộc anh hùng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ đại hội VI, VII, VIII đến đại hội IX của Đảng nhiều tư duy nhận thức mới đã được rút ra và trở thành các quan điểm mới . Đảng ta đã khẳng định “đổi mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “ ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và cấp thiết. Để phát triển nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó ta cần xây dựng và phát triển đồng bộ tất cả các loại thị trường, những loại thị trường còn đang hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Việc hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “có thể ví cơ thể sống phải có đầy đủ các bộ phận của cơ thể “. Tuy nhiên trong cơ thể sống mọi bộ phận không thể cùng một lúc được hình thành và phát triển như cơ thể đã trưởng thành. Nền kinh tế cũng vậy, để có thể vận hành được thì phải nhen nhóm ấp ủ hình thành và phát triển dần từng bước. Nghị quyết đại hội Đảng IX đã khẳng định : “ thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những thị trường còn sơ khai như : thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ ”. Theo mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc nghiên cứu và định hình phát triển các loại thị trường ở nước ta đã được rất nhiều viện nghiên cứu kinh tế quốc gia nghiên cứu. Việc phân tích những vấn đề lí luận và thực trạng việc phát triển các loại thị trường ở Việt Nam được phân tích sau đây tuy không đạt được tính khái quát cao, nhưng mong rằng nó sẽ góp một tiếng nói cho công cuộc phát triển kinh tế nước ta hôm nay.

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam lí luận và thực tiễn  

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam lí luận và thực tiễn Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC130 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Như đã biết đất nước ta là một nước nghèo, các trang thiết bị lạc hậu, nguồn tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm. Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây. Các ngân hàng cho vay cũng phải có các điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Hầu hết các doanh nghiệp ở trong tình trạng không có vốn nhưng cũng không có cách nào để huy động. Đối mặt với những khó khăn đó, cổ phần hóa được coi là một giải pháp nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Vì vậy đây là lựa chọn tất yếu có tính khách quan. Cổ phần hóa là một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới. Cổ phần hóa thu hút được một nguồn vốn nhất định trong công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo ra một động lực trong quản lý và phát huy tốt hơn tính sáng tạo, cần cù của người lao động việc làm của người lao động đảm bảo tốt hơn nên doanh thu lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách, tích lũy vốn của doanh nghiệp và chính thu nhập của người lao động sẽ tăng lên chuyển đổi hình thức sở hữu với quy chế quản lý mới,người lao động sẽ phát huy ý thức kỷ luật, tự giác, chủ động tinh thần tiết kiệm trong lao động góp phần làm cho hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ngày càng cao, mang lợi ích thiết thực cho bản thân mình, công ty Nhà nước và xã hội.

Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam  

Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC129 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đất nước Việt Nam ta sau nhiều năm giành được độc lập, nền kinh tế vẫn đi theo con đường tự cấp tự túc. Cho đến năm 1986, nước ta mới bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,như nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường …,thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN.Đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện nay chưa có hoặc còn sơ khai như : thị trường lao động,thị trường chứng khoán,thị trường bất động sản,thị trường khoa học công nghệ…” Trong quá trình đổi mới đó,Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên cơ sở vật chất- kỹ thuật,nguồn lực còn yếu kém nên chúng ta còn nhiều hạn chế.Đặc biệt, sự phát triển của các loại thị trường chưa đồng bộ. Do vậy chúng ta cần phải nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về thị trường trong nền kinh tế thị trường(KTTT) định hướng XHCN ở Việt Nam, để có được những hiểu biết và giải pháp thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam.

Đẩy mạnh cổ phần hóamột bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam  

Đẩy mạnh cổ phần hóamột bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC128 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước.Trong một môi trường mới,điều kiện cơ chế quản lý thay đổi,khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ những yếu kém và lâm vào tình trạng sa sút và khủng hoảng.Kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới cho thấy,Cổ phần hóa có vai trò rất quan trọng trongviệc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước,nhất là những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam.Cổ phần hóa có tác động mạnh mẽ và rấthiệu quả đến việc khai thác,sử dụng và phát huy các nguồn lực về vốn, tài sản và con người để phát triển sản xuất kinh doanh,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy Cổ phần hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình đổi mới và phát triển DNNN nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.

Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước  

Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC125 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Tổng bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Khả Phiêu phát biểu tại hội thảo quốc tế Việt Nam trong thế kỷ 20 đã từng nói: "Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ rằng: dân tộc mình là một dân tộc nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức thấp… Chúng tôi hiểu rõ khoảng cách giữa nền kinh tế của chúng tôi và nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi hiểu rõ khoa học công nghệ trong thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lấy sức ta mà giải phóng cho ta chúng tôi phải tri thức hóa Đảng, tri thức hóa dân tộc tiếp tục tri thức hóa công nông, cả nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành độc lập 45 cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói. Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc". Một dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc yếu. Chúng ta đã từng chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la khổng lồ của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không làm được, và tôn tin rằng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế với lực lượng lao động dồi dào, ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều sự đối đầu.

Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay  

Một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá trong một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC124 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước là một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù Doanh nghiệp nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của chúng có nhiều điểm bất cập. Doanh nghiệp nhà nước chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ có đào tạo, cán bộ quản lý có năng lực cũng tập trung chủ yếu trong các Doanh nghiệp nhà nước. Các Doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành, lĩnh vực khác như bảo hiểm, ngân hàng… Tuy nhiên, với nhiều thế mạnh như vậy song Doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực sự phát huy tốt vai trò của nòng cốt của chúng trong việc làm cho kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo. Đa số các Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, gây thất thoát tài sản của Nhà nước một cách nghiêm trọng. Những vụ tham nhũng điển hình đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy, từ trước đến nay, vấn đề sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những giải pháp đổi mới Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện có hiệu quả và mang lại nhiều thay đổi triệt để trong cấu trúc tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hoá. Cổ phần hoá được bắt đầu triển khai cách đây 15 năm với những bước đi thử nghiệm và sau đó là sự triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cổ phần hoá vẫn chưa mang lại những kết quả mong muốn.

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn  

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC119 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong khu vực trên thế giới.

Phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay  

Phát triển kinh tế trang trại nông nghiệp trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 06-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC116 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh tế trang trại ở nước ta đã tồn tại từ lâu, nhưng chỉ phát triển mạnh mẽ trong vài năm gần đây. Có thể nói việc thực hiện chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW Đảng (Khoá 4), Nghị quyết 10 - NQ/TW của Bộ Chính trị (Tháng 4/1988) về phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân đã đặt nền móng cho sự ra đời của kinh tế trang trại với những thành tựu của công cuộc đổi mới, sản xuất nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, nhiều hộ nông dân có tích luỹ, đã tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển. Đặc biệt là sau khi luật đất đai ra đời năm 1993, thì kinh tế trang trại mới có bước phát triển khá nhanh và đa dạng. Việc phát triển kinh tế trang trại đã đem lại lợi ích to lớn về nhiều mặt, làm thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế - xã hội của các vùng nông thôn. Trong những năm đổi mới nhờ chủ trương của Đảng khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và việc trang trại trả lại cho hộ nông dân quyền tự chủ về kinh tế mà kinh tế hộ cũng như kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể trong nông nghiệp đã có bước phát triển mạnh mẽ, tạo động lực thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta phát triển, khai thác đầy đủ hơn các tiềm năng và nguồn lực về đất đai, vốn và lao động.

  Trang trước  1 2 3  Trang sau
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)