Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA049 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Thực trạng và các giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại Mỹ

Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6 triệu USD và hiện nay đã có mặt trên 64 quốc gia. Thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam là các nước Châu Âu, 13 nước Châu Á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà chúng ta hướng vào. Với thực trạng Việt Nam đang trên đà phấn đấu để gia nhập WTO thì việc xúc tiến quan hệ thương mại với Mỹ là điều quan trọng, cùng với một số mặt hàng xuất khẩu khác, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam cần phải khẳng định được vai trò và vị thế của mình trên đất Mỹ


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1908 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 19-06-2012 10:23:46 AM
Mã Tài liệu
DA049
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
NỘI DUNG
I_ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
            1_KHÁI NIỆM VỀ THỊ TRƯỜNG.
          a. Thị trường nói chung.
         Từ xưa đến nay đã có rất nhiều định nghĩa, quan niệm về thị trường khác nhau nhưng ta có thể hiểu một cách chung nhất về bản chất của thị trường như sau:
          Thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người bán và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau tuân theo các quy luật kinh tế hàng hóa.
Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn sau:
          - Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật kinh tế hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
          - Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản phẩm làm ra; gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục tùng nhu cầu tiêu dùng.
          - Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí phí sản xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
          b. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản
            Thị trường xuất khẩu thuỷ sản về cơ bản vẫn mang bản chất của thị trường nói chung nhưng nội dung của nó hẹp hơn. Ta có thể hiểu thị trường xuất khẩu thuỷ sản là một lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người cung cấp ở nước này và người có nhu cầu ở nước khác về sản phẩm và dịch vụ thuỷ sản có thể trao đổi, mua bán với nhau tuân theo các qui luật kinh tế hàng hoá.
           Thị trường trao đổi thuỷ sản thế giới rất rộng lớn bao gồm 195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu  thuỷ sản trong đó nhiều quốc gia vừa xuất vừa nhập khẩu thuỷ sản như Mỹ, Pháp, Anh...Năm 1999, lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt hơn 50 tỷ đô la, giảm 2,8% so với 51,4 tỷ năm 1997.
           Hiện nay, Thái Lan là nhà xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ đô la, tương đương 8%  tổng kim ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ, Nauy, Trung Quốc,Pêru, Đài Loan, Canađa, Chilê, Inđônêxia, Nga, Hàn Quốc...
           Quốc gia nhập khẩu lớn nhất là Nhật Bản, chiếm 30% tổng kim ngạch buôn bán quốc tế, vượt xa mức 14% thị phần của nước đứng thứ hai là Mỹ. Năm 1999, nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore...giảm sút nhưng đã được bù đắp phần nào bởi nhu cầu tăng mạnh ở thị trường Mỹ. Các nước nhập khẩu thuỷ sản lớn của thế giới đứng sau Nhật và Mỹ lần lượt là Pháp, Italia, Đức, Anh, Hồng Kông, Hà Lan...
            2_ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG  THUỶ SẢN TẠI MỸ.
         Thị trường Mỹ luôn là môt thị trường hấp dẫn không chỉ đối với các nước châu Á ( trong đó có Việt Nam) mà còn là mục tiêu của nhiều nước trong các châu lục khác.Trong số các thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam thì Mỹ là thị trường khá rộng lớn và giàu tiềm năng, chỉ đứng sau Nhật Bản.  Nước Mỹ với 280 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người vào loại cao nhất thế giới, đời sống vật chất của người dân Mỹ ở mức rất cao nên nhu cầu về các loại thực phẩm là rất lớn cả về số lượng và chất lượng, trong đó đặc biệt là nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản. Sức mua của người dân Mỹ lớn, giá cả ổn định, mặt hàng chất lượng càng cao, càng đắt giá thì lại càng dễ tiêu thụ. Mỹ cũng có một ngành thuỷ sản khá phát triển, tuy nhiên nó vẫn không đủ để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân về chủng loại và chất lượng ở một số mặt hàng thuỷ sản. Chính vì thế Mỹ vẫn phải nhập khẩu từ các nước khác. Khi  đời sống lên cao thì nhu cầu về các loại hải sản tăng lên mạnh mẽ. Các loại hải sản xuất hiện trên thị trường với nhiều chủng loại khác nhau tạo nên sự phong phú và đa dạng. Có rất nhiều loại sản phẩm trên thị trường được chế biến với công nghệ khác nhau mang những thương hiệu khác nhau của rất nhiều hãng trong và ngoài nước. Hơn nữa người dân Mỹ lại rất tự do trong việc lựa chọn các mặt hàng tiêu dùng cho mình, họ có thể lựa chọn một sản phẩm trong hoặc ngoài nước tuỳ ý miễn là đáp ứng được nhu cầu của họ. Do đó rất nhiều các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước Mỹ đổ xô vào thị trường tiêu thụ béo bở này tạo nên một môi trường cạnh tranh khá căng thẳng. Việt Nam với những lợi thế riêng về chất lượng sản phẩm tự nhiên, hàng năm nước ta vẫn xuất sang Mỹ một số lượng lớn sản phẩm thuỷ sản được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Chỉ tính riêng năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ lên tới con số kỷ lục 9,3 tỷ USD. Vào được thị trường Mỹ tức là hàng hóa uy tín chất lượng cao, bởi vì phải đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP. Nhìn một cách tổng quát, Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn và giàu tiềm năng của ngành xuất khẩu thuỷ sản nước ta.
         Bên cạnh đó, thị trường Mỹ cũng là một thị trường khá khắt khe. Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ lại rất cao. Một sản phẩm thuỷ sản phải đạt tiêu chuẩn về mẫu mã, chất lượng, độ an toàn thực phẩm và hàm lượng chất dinh dưỡng thì mới có đủ khả năng xuất hiện và cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Nếu không có đủ tất cả các yêu cầu trên thì sản phẩm đó sẽ bị các sản phẩm của các hãng khác cạnh tranh loại bỏ, hoặc bị chính người tiêu dùng Mỹ tẩy chay, khả năng tồn tại và phát triển của sản phẩm đó là rất khó khăn. Đó là  về phía những người tiêu dùng còn về phía Chính phủ Mỹ cũng có rất nhiều những qui định đặt ra cho các sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu. Khi đưa sản phẩm thuỷ sản vào thị trường Mỹ, chúng ta phải quan tâm và hiểu được hệ thống pháp luật của Mỹ. Hệ thống luật của Mỹ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Vì vậy nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì các doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau:
         _Luật chống độc quyền đưa ra các chế tài hình sự khá nặng đối với những hành vi độc quyền hoặc cạch tranh không lành mạnh trong kinh doanh, cụ thể là phạt tiền đến 1 triệu USD đối với các công ty,100.000 USD  hoặc tù 3 năm đối với cá nhân.
           _Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế.
           _Luật liên bang và các  tiểu bang của Mỹ được áp dụng cùng một lúc trong lĩnh vực thuế kinh doanh đòi hỏi ngoài việc nắm vững luật của tiểu bang mà các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh còn phải nắm vững luật của Liên bang nữa.
   Vì vậy có thể nói chưa có sự phù hợp cao giữa việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường “khó tính” của thế giới. Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải qua sự kiểm tra chặt chẽ  của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa kỳ(FDA) theo các tiêu chuẩn HACCP. Vấn đề vệ sinh thực phẩm, ô nhiễm môi trường, bảo vệ sinh thái...là những lý do mà Mỹ thường đưa ra để hạn chế nhập khẩu.
 Bên cạnh đó, hàng hoá từ nước ngoài xuất khẩu vào Mỹ sẽ phải trải qua một số thủ tục hải quan khá chặt chẽ. Hệ thống thuế quan của Mỹ(gọi tắt là HTS ) hiện không chỉ được thi hành ở Mỹ, mà hầu hết các quốc gia thương mại lớn của thế giới đang áp dụng... .Nhiều loại thuế của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị hàng hoá, tức là mức thuế được xác định dựa trên tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu, mức thuế suất biến động từ 1-40%, trong đó mức thông thường từ 2-7% giá trị hàng nhập khẩu. Một số hàng hoá khác phải chịu thuế gộp- tức là loại thuế kết hợp cả mức thuế tỷ lệ trên giá trị và mức thuế theo số lượng. Có những hàng hoá phải chịu thuế định ngạch- đó là loại thuế suất cao hơn được áp dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một lượng hàng hoá cụ thể thuộc loại đó đã được nhập khẩu vào Mỹ trong cùng năm đó. Hầu hết các đối tác thương mại của Mỹ đều được hưởng quy chế đối xử thương mại bình thường(NTR). Hàng hoá của các nước thuộc diện NTR khi xuất khẩu vào Mỹ chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn nhiều so với hàng hoá của các nước không có NTR của Mỹ. Khi có sự điều chỉnh giảm hay huỷ bỏ một loại thuế quan nào đó thì sự thay đổi đó sẽ được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các nước được hưởng NTR của Mỹ. Hiện nay, các nước tham gia WTO đều được hưởng NTR của Mỹ. Các nước đang được hưởng NTR của Mỹ phải đáp ứng hai điều kiện cơ bản: đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ và phải tuân thủ các điều kiện  Jacson-Vanik trong luật thuơng mại năm 1974 của Mỹ.
 Hơn nữa, tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất cao, nhiều nước trên thế giới có lợi thế tương tự như Việt Nam cũng đều coi thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản cũng như những hàng hoá khác. Ta bước vào thị trường Mỹ chậm hơn so với các đối thủ, khi mà thị trường đã ổn định về: người mua, người bán, thói quen, sở thích, sản phẩm_đây cũng được coi là thách đố đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng thuỷ sản nói riêng của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
            3_ SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
Thực tế cho thấy sản lượng tiêu thụ thuỷ sản  trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng ngày càng tăng, việc đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nguyên nhân chính đó là gia tăng dân số và thu nhập. Dự báo vào năm 2005 mức tiêu thụ thực phẩm trên trị trường thế giới là 100 triệu tấn/năm( chưa kể đến thức ăn cho chăn nuôi là 25-30 triệu tấn/năm) và tổng mức tiêu thụ thuỷ sản của thế giới là 125-135 triệu tấn/năm.
Ngành ngư nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu phát triển mạnh từ năm 1990 đến nay và xuất khẩu thuỷ sản cũng không ngừng tăng lên từ đó. Mặt hàng xuất khẩu về thuỷ sản của Việt Nam khá phong phú về chủng loại. Sản lượng tôm đông lạnh chiếm từ 80-90% khối lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, về giá xuất khẩu thì tôm cũng là mặt hàng được giá nhất trong  ba chủng loại chính xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam. Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thì thuỷ sản là ngành có vị trí rất quan trọng. Chúng ta có thể thấy rằng Mỹ là thị trường tiềm năng đối với Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2000 mới đạt khoảng 700 triệu USD nhưng khả năng nhập khẩu của thị trường này năm 2000 đã là 1300triệu USD (Việt Nam mới chỉ chiếm 0,06% thị phần nhập khẩu của Mỹ). Dự tính rằng kim ngạch xuất khẩu  sang thị trường Mỹ ở cuối năm 2005 là 3 tỷ USD và năm 2010 là 6 tỷ USD- đây là dự báo mà một nhóm các nhà nghiên cứu đã đề xuất.
Việc buôn bán thuỷ sản trên thế giới vẫn tiếp tục tăng như hiện nay. Các nước xuất khẩu mạnh và năng động vẫn là các nước đang phát triển - những nước đang cần ngoại tệ, còn những nước nhập khẩu là những nước phát triển.
Trong xu thế đó, để tăng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản nói riêng và phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung thì vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản nước ngoài, đặc biệt đối với thị trường Mỹ là vô cùng cần thiết.
II_ KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
            1_ KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TẠI MỸ CỦA VIỆT NAM.
Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm. Năm 1998 lên tới 82 triệu USD và đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam 130 triệu USD  thủy sản các loại, năm 2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất khẩu thuỷ Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về khối lượng, với giá trị 210,4 triệu USD. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh. Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 6,3 triệu USD  trong 2 tháng đầu năm 2001 cũng tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có 1,5 triệu USD), cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu USD trong hai tháng đầu năm 2001, trong đó cá ba sa philê đông lạnh là mặt hàng Việt Nam vẫn chiếm lĩnh thị trường Mỹ với  giá trị xuất khẩu 1,7 triệu USD. Mặt hàng cua biển cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ( bao gồm cua sống, cua đông lạnh, cua luộc, thịt cua đông) đạt giá trị xuất khẩu 1,8 triệu USD. Ngoài ra còn một số mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu khác cũng mang lại giá  trị lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA049 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)