Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA330 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam

Ngành cơ khí là một ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp cơ khí không chỉ cung cấp các sản phẩm tiêu dùng mà quan trọng hơn là cung cấp thiết bị, máy móc cho nhiều ngành sản xuất khác. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì công nghiệp cơ khí càng có vai trò to lớn hơn bao giờ hết.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2147 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 23-06-2012 05:30:37 PM
Mã Tài liệu
DA330
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng

PHẦN I

CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG  CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
 
I.                       Sản phẩm công nghiệp và thị trường sản phẩm công nghiệp.
1.          Sản phẩm công nghiệp.
Theo quan niệm truyền thống, sản phẩm công nghiệp là tổng hợp các đặc trưng vật lý, hoá học có thể quan sát và được tập hợp trong một hình thức đồng nhất, là vật mang giá trị sử dụng.
Theo quan điểm kinh tế hàng hoá, sản phẩm công nghiệp chứa đựng các thuộc tính hàng hoá. Nó không chỉ là sự tổng hợp các đặc trưng hoá lý và đặc trưng giá trị sử dụng mà còn là vật mang giá trị trao đổi.
Theo quan điểm Marketing, sản phẩm công nghiệp là một tập hợp đặc trưng vật chất và đặc trưng phi vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường.
Sản phẩm công nghiệp sẽ được tiêu thụ trên thị trường sản phẩm công nghiệp.
2.          Thị trường sản phẩm công nghiệp.
Trước khi tìm hiểu khái niệm thị trường sản phẩm công nghiệp, ta phải hiểu thế nào là thị trường. Có thể nói, thị trường là nơi kết hợp giữa cung và cầu, trong đó người mua và người bán cùng bình đẳng, cùng cạnh tranh với nhau. Việc xác định nên mua hay nên bán hàng hoá và dịch vụ với số lượng và giá cả bao nhiêu do cung cầu xác định.
Sự phân định thị trường sản phẩm công nghiệp và thị trường các yếu tố sản xuất kinh doanh chỉ mang ý nghĩa tương đối, bởi vì từng doanh nghiệp công nghiệp, trong quan hệ với thị trường, bao giờ họ cũng vừa là người mua và vừa là người bán.
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Thị trường hoạt động dựa trên các quy luật sau đây:
-              Quy luật giá trị
-              Quy luật cung cầu
 
 
             - Quy luật lưu thông tiền tệ
- Quy luật cạnh tranh
II.                    Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
1.          Cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
1.1.              Quan niệm về cạnh tranh.
Thuật ngữ  “cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi ích, mục tiêu xác định.
Kinh tế học định nghĩa cạnh tranh là sự tranh giành thị trường ( khách hàng ) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, cạnh tranh là một điều kiện và là yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo sự phát triển của xã hội nói chung. Kết quả cạnh tranh sẽ tự loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và tất yếu những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ đứng vững trên thị trường.
Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực, cạnh tranh không lành mạnh cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho xã hội như : gây tổn thất lãng phí cho xã hội, ô nhiễm môi trường .... Chính vì vậy, nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu để hạn chế những tác hại tiêu cực của cạnh tranh.
1.2.              Các loại hình cạnh tranh.
Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa trên những tiêu thức khác nhau .
1.2.1.       Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, có ba loại :
-              Cạnh tranh giữa người bán và người mua
-              Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
-              Cạnh tranh giữa những người bán với nhau
1.2.2.       Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường, có 3 loại :
-              Cạnh tranh hoàn hảo : Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người mua và người bán và không có người nào có ưu thế để có thể ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường.
-              Cạnh tranh không hoàn hảo : Tình trạng thị trường không đạt được như trên, tức là có ít nhất một người bán hàng lớn đến mức có thể ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường.
-              Cạnh tranh độc quyền : Đây là loại hình cạnh tranh mà trên thị trường chỉ có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường cạnh tranh độc quyền không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả.
1.2.3.       Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế, có :
-              Cạnh tranh trong nội bộ ngành : Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp trong cùng một ngành.
-              Cạnh tranh giữa các ngành : Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất.
2.          Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và những chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1.              Khái niệm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
 WEF- “Báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu năm 1997”, định nghĩa : Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện được những mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
Theo quan điểm tổng hợp của Wan Buren, Martin và Westqren ( 1991), khả năng cạnh tranh của một ngành ( một doanh nghiệp ) là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước.
Như vậy, có thể hiểu khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là năng lực, khả năng về mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp : hoạt động sản xuất, hoạt động quản trị cũng như khâu tiêu thụ ... nhằm sản xuất ra được những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao với chi phí sản xuất thấp, được thị trường chấp nhận nhờ đó tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, không ngừng duy trì và mở rộng thị phần , xác lập cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
2.2.              Các chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để phản ánh khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, người ta dùng rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau gồm các chỉ tiêu định lượng và các chỉ tiêu định tính.
2.2.1.       Các chỉ tiêu định lượng.
-              Thị phần của doanh nghiệp : Đây là một chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được đo bằng tỷ lệ phần trăm doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao và ngược lại.
-              Doanh thu : Dựa vào doanh thu có thể đánh giá được khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp là tốt hay không tốt. Để sử dụng được chỉ tiêu này thì doanh nghiệp có thể chọn từ 3 đến 5 đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành để đưa ra so sánh và kết luận.
Chỉ tiêu này dễ tính, đơn giản nhưng nhược điểm là dôi khi không chính xác và khó lựa chọn ra doanh nghiệp nào là mạnh nhất.
-              Tỷ suất lợi nhuận : Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công thức tính :
                                        Lợi nhuận của doanh nghiệp 
Tỷ suất lợi nhuận =     —–———————————
                                        Doanh thu của doanh nghiệp
 
-              Quy mô về vốn : Một doanh nghiệp có tổng vốn kinh doanh lớn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn do có điều kiện mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
-              Năng suất lao động: Được đo bằng giá trị sản lượng / một công nhân. Năng suất lao động càng cao phản ánh doanh nghiệp càng có khả năng giảm chi phí, hạ giá thành, do đó có khả năng cạnh tranh càng cao trên thị trường.
-              Giá thành sản xuất : Phản ánh khả năng cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. Giá thành sản xuất càng thấp, giá bán càng giảm, do đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
2.2.2      Các chỉ tiêu định tính .
-              An toàn trong kinh doanh : Chỉ tiêu chủ yếu về an toàn trong kinh doanh là đa dạng hoá đầu tư và sản phẩm với kết quả cuối cùng là bảo đảm và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
-              Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường : Các doanh nghiệp phải xây dựng nhãn hiệu riêng của mình và khi đọc đến tên nhãn hiệu người tiêu dùng trên toàn thế giới có thể phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức phục vụ của sản phẩm này như thế nào so với các sản phẩm khác.
III.                Những nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau :
1.          Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố sau :
-              Các nhân tố về mặt kinh tế.
-              Các nhân tố về chính trị, luật pháp.
-              Các nhân tố về khoa học – công nghệ.
-              Các yếu tố về văn hoá-xã hội.
-              Các yếu tố tự nhiên.
2.          Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường phức tạp nhất và ảnh hưởng nhiều nhất đến cạnh tranh. Sự thay đổi thường diễn ra thường xuyên khó dự báo được và phụ thuộc vào các lực lượng sau đây :
- Sức ép của đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành : Khi trong ngành kinh doanh của doanh nghiệp có số lượng đông đối thủ cạnh tranh hoặc có nhiều đối thủ thống lĩnh thị trường thì cạnh tranh sẽ  ngày càng gay gắt hơn.
- Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường
- Sức ép của nhà cung ứng : Quyền lực của nhà cung ứng được khẳng định thông qua sức ép về giá nguyên vật liệu.
- Sức ép của khách hàng :Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp còn bị đe doạ bởi chính năng lực, trình độ nhận thức, khả năng của người tiêu dùng.
- Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế : Khi trên thị trường xuất hiện thêm sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất tất yếu sẽ giảm khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
3.Nhân tố bên trong doanh nghiệp.
3.1.              Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực bao gồm :
- Quản trị viên cấp cao : Gồm ban giám đốc và các trưởng phòng phó ban. Đây là đội ngũ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
-  Quản trị viên cấp trung gian : Đây là độ ngũ quản lý trực tiếp phân xưởng sản xuất đòi hỏi phải có kinh nghiệm và khả năng hợp tác, ảnh hưởng tới tốc độ sản xuất và chất lượng sản phẩm.
- Đội ngũ quản trị viên cấp thấp và cán bộ công nhân viên trực tiếp sản xuất sản phẩm : Đội ngũ công nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, do vậy cần tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt những công việc được giao.
3.2.              Nguồn lực vật chất ( Máy móc thiết bị và công nghệ )
Máy móc thiết bị và công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến năng lực của doanh nghiệp, nó là nhân tố quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm, chất lượng của sản phẩm và giá thành của sản phẩm. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị hiện đại thì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ. Như vậy nhất định khả năng cạnh tranh sẽ tốt hơn.
3.3.              Nguồn lực tài chính.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp quyết định tới việc thực hiện hay không thực hiện bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính sẽ có điều kiện để đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng, hạ giá thành. Như vậy, doanh nghiệp sẽ duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị trí của mình trên thị trường.
 
IV.         Một số nội dung và yêu cầu chủ yếu của hoạt động quản trị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp vừa là đối tượng vừa là động lực chủ yếu của quá trình phát triển kinh tế, vì vậy có thể khằng định là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cần phải được nâng cao, phải được đảm bảo và phát triển. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả trong mọi hoạt động quản trị của mình, đặc biệt chú ý các lĩnh vực sau :
1.          Lĩnh vực sản xuất
Sản xuất là việc sử dụng con người lao động để tác động lên các  yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ( vật tư, máy móc, đất đai, thông tin.... ) để làm ra các sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường.
Lĩnh vực này gồm các nhiệm vụ cụ thể sau :
- Hoạch định chương trình
- Xây dựng kế hoạch sản xuất
- Điều khiển quá trình sản xuất
- Kiểm tra chất lượng
Lĩnh vực sản xuất có vai trò rất quan trọng. Tổ chức sản xuất hợp lý sẽ góp phần to lớn vào việc sử dụng có hiệu quả nguyên, nhiên, vật liệu, thiết bị, máy móc và sức lao động trong quá trình sản xuất. Từ đó, có thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất. Vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tất yếu phải tổ chức tốt quá trình sản xuất.
2.          Lĩnh vực Marketing
Nhiệm vụ chung của quản trị Marketing là thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ chung của doanh nghiệp như : lợi nhuận, tăng doanh thu và nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ cụ thể của quản trị Marketing là : nghiên cứu khách hàng và thị trường để trên cơ sở đó đề ra các chiến lược về thị trường, về sản phẩm, tiêu thụ.... Cụ thể bao gồm những nội dung sau :
- Nghiên cứu các thông tin về thị trường
- Hoạch định chính sách sản phẩm
- Hoạch định chính sách giá cả
- Hoạch định chính sách phân phối
- Chính sách hỗ trợ tiêu thụ
Nâng cao khả năng cạnh tranh tất yếu phải tăng cường hoạt động Marketing trong doanh nghiệp. Thông qua Marketing, các doanh nghiệp sẽ có được những thông tin chính xác về thị trường, nhờ đó hoạch định được một chính sách sản phẩm phù hợp, một chiến lược về giá tối ưu, đồng thời tổ chức được quá trình phân phối và hỗ trợ tiêu thụ một cách hiệu quả... Từ đó, sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh, đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của doanh nghiệp.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA330 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)