Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA011 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Mô hình tổng công ty nhà nước, thực trạng và giải pháp

Thực tế hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước trong những năm qua đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, ngày càng khẳng định được vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế. Tuy nhiên về mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn. Để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của Tổng công ty, tiến tới xây dựng một số Tổng công ty đạt được các yêu cầu cơ bản của một tập đoàn kinh tế, cần phải tổng kết, đánh giá lại mặt mạnh, mặt yếu của mô hình Tổng công ty, từ đó có biện pháp, chính sách tăng cường, củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty, lựa chọn các Tổng công ty Nhà nước quan trọng, hoạt động có hiệu quả, có khả năng và điều kiện để xây dựng thành lập đoàn kinh tế mạnh.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1623 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 18-06-2012 04:04:19 PM
Mã Tài liệu
DA011
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG CÁC TỔNG CÔNG TY THỰC SỰ TRỞ THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ LỚN MẠNH.
1. Các Tổng công ty Nhà nước có quy mô lớn (Tổng công ty 91,90) là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Đảng và Nhà nước luôn nhận thức rõ sự cần thiết phải có một khu vực kinh tế Nhà nước đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả để giữ vững vai trò điều tiết nền kinh tế, tạo chỗ dựa vật chất cho Nhà nước trực tiếp điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một hệ thống các DNNN hoạt động có hiệu quả là một tác nhân quan trọng để Nhà nước làm đối tượng với các thành phần kinh tế khác trong việc kìm chế những sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế do các thành phần kinh tế tư nhân gây ra (do chạy theo lợi nhuận đơn thuần), kìm chế sự lũng đoạn của các thành phần kinh tế khác trong từng ngành hàng, lĩnh vực cụ thể. Nhờ đó, Nhà nước có thể hướng nền kinh tế đó theo chiến lược đã chọn. Các DNNN là lực lượng vật chất để Nhà nước ta thực hiện sử định hướng XHCN. Muốn xây dựng chủ nghĩa xấ hội, nhất thiết Bộ phận sở hữu này phải được củng cố, phát triển, phải được xem vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không có các nhân tố kinh tế xã hội chủ nghĩa đủ sức liên kết, dẫ dắt các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo của CNXH, chắc chắn sẽ không thể có được CNXH. Đặc biệt, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thì điều đó là tất yếu. Nếu hệ thống các DNNN không được củng cố, lớn mạnh, không đủ sức mạnh vật chất để trụ vững trong cạnh tranh, Nhà nước XHCN sẽ không thể có lực lượng vật chất để điều tiết hoạt động của nền kinh tế đi theo định hướng XHCN.
Để đảm bảo cho các DNNN đủ làm đối tượng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, chúng ta đang xucs tiến xây dựng các tập đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước mà bước đầu là việc thành lập các Tổng công ty 91 (Quyết định 91/Ttg) và 90 (Quyết định 90/Ttg) việc thành lập các Tổng công ty này nhằm tập trung vốn, kỹ thuật để tăng cường sức cạnh tranh, tự vươn lên giành vị trí chi phối ngành hàng hoặc một số ngành hàng, trở thành xương sống của nền kinh tế. Các Tổng công ty Nhà nước hiện nay chiếm khoảng 80% sản lượng và vốn của khu vực DNNN, có khả năng chi phối toàn Bộ nền kinh tế. Việt Nam.
2. Thành lập các Tổng công ty Nhà nước là một biện pháp để sắp xếp lại các DNNN.
Nhằm khắc phục sự dàn trải và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính  sách sắp xếp lại DNNN. Đặc biệt, ngày 7/3/1994, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số s90/Ttg và 91 Ttg thành lập 18 - Tổng công ty có quy mô quốc gia và 73 Tổng công ty có quy mô nhỏ hơn. Gọi tắt là các Tổng công ty 91,90. Theo các quyết định này thì tất cả các Tổng công ty (được thành lập trước đó) không đủ điều kiện về vốn, tài sản phải hạ cấp. Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước này thu hút gần 1100 DNNN là thành viên hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc, chiếm khoảng 30% tổng số DNNN đang hoạt động và khoảng 70% doanh nghiệp do trung ương quản lý. Tính đến cuối năm 1999, cả nước có 5.925DNNN, mặc dù số lượng DNNN giảm gần 50% so với năm 1989 song DNNN vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
3. Thí điểm thành lập các Tổng công ty Nhà nước theo hướng hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh là một chủ trương đúng đắn của Nhà nước ta.
Các Tổng công ty hiện nay về cơ bản là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, vận hành theo cơ chế “công ty mẹ”, “công ty con”. Đây chính là bước khởi đầu  cho việc hành thành cáctập đoàn kinh tế lớn, kinh doanh đa ngành, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Tại hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty Nhà nước, nhìn chung, lãnh đạo các Tổng công ty đều tán thành ý kiến thí điểm mô hình “công ty mẹ, công ty con”. Tổng giám đốc Tổng công ty dệt may, ông Bùi Xuân Khu nói: “công ty mẹ - công ty con là mô hình rất linh hoạt và hoạt động theo dạng tập đoàn lớn. Mô hình này sẽ đem lại hiệu quả và sự hợp tác cao hơn trong công việc”. Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Thuỷ sản Việt Nam cho biết: “ công ty mẹ- công ty con là mô hình tập đoàn kinh tế có quy mô lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. áp dụng mô hình này, Tổng công ty Thủy sản Việt Nam sẽ có phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành, đa nghề, nhiều lĩnh vực. Công ty mẹ sở hữu số lượng vốn lớn, giữ cổ phần chi phối trong công ty con. Bên cạnh các tổ chức sản xuất, kinh doanh còn các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...”.
Để nâng cao sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty tiến tới xây dựng một số Tổng công ty đạt được các yêu cầu cơ bản của một tập đoàn kinh tế, trước hết phải tổng kết, đánh giá lại để thấy sẽ mặt mạnh mặt yếu của từng Tổng công ty, thứ hai là có biện pháp, danh sách tăng cường, củng cố các Tổng công ty, thứ ba là lựa chọn các Tổng công ty Nhà nước quan trọng hoạt động có hiệu quả để xây dựng thành lập tập đoàn kinh tế mạnh.
II. TỔNG KẾT LẠI MÔ HÌNH TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
1. Mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước
Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước được tổ chức theo quyết định số 90/ Ttg và 91/Ttg ngày 7/3/1994 của thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91. Các Tổng công ty này vận hành theo cơ chế “công ty mẹ” và “công ty con”; tổ chức gồm: Hội đồng quản trị (HĐQT); Tổng giám đốc (TGĐ), Ban kiểm soát; các đơn vị thành viên.
Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 được phân biệt dựa trên quy mô v ốn pháp định, số lượng doanh nghiệp thành viên; cấp có thẩm quyền quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ nhiệm nhân sự Bộ máy của Tổng công ty.
Việc lựa chọn mô hình Tổng công ty như trên, lúc đầu, sự hoạt động có thể chưa có hiệu quả so với mô hình doanh nghiệp hoạt động độc lập thành lập theo quyết định 338; song, cái được lớn là giảm đáng kể số lượng doanh nghiệp trực thuộc Bộ quản lý ngành hay cấp hành chính địa phương cũng như giảm số lượng doanh nghiệp không cần thiết, tiếp tục duy trì qua sắp xếp lại khi đưa vào Tổng công ty. Cái được lớn và cơ bản tạo cho Bộ và cấp hành chính địa phương thực hiện đúng đắn chức năng quản lý Nhà nước đáp ứng yều cấp thiết việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Bộ máy quản lý hành chính hiện nay.
2. Các kết quả bước đầu.
Hiên nay, cả nước có 17 Tổng công ty 91, 74 Tổng công ty 90. Các Tổng công ty này đã dung nạp gần 1100 DNNN làm thành viên, tương đương 70% số DNNN đo trung ương quản lý; chiếm s80% tổng số vốn và giá trị sản lượng của DNNN. Do đó, các Tổng công ty Nhà nước không những chi phối cơ bản khu vực DNNN mà còn chi phối cả nền kinh tế. Kết quả bước đầu như sau:
* Các Tổng công ty Nhà nước đã đi vào ổn định, khắc phục khó khăn, vươn lên đạt kết quả đáng kể về sản xuất, kinh doanh.
Hầu hết các Tổng công ty đều đạt mức tăng trưởng được giao về tổng sản lượng sản xuất, tổng doanh thu, nộp ngân sách, lãi, lỗ, thu nhập bình quân người lao động, kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu và một số chỉ tiêu quan trọng khác đầu tăng trưởng qua các năm. Có một số Tổng công ty ngày càng lớn mạnh, có thêm lực phát triển, hoạt động có hiệu quả, ổn định, vững chắc; như Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông, Tổng công ty dầu khí, Tổng công ty Than, Tổng công ty điện lực, Tổng công ty Hàng Không, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Thuốc lá, Tổng công ty Rượu bia, nước giải khát, Tổng công ty Xăng dầu.
Các Tổng công ty này không chỉ đạt được các chỉ tiêu hiện tăng trưởng mà thị phần của ngành ngày càng được mở rộng, tỷ lệ huy động năng lực sản xuất cao.
* Các Tổng công ty ngày càng thể hiện được sức mạnh kinh tế và kinh doanh, khẳng định vai trò, tác dụng của nó trên thực tế đối với hầu hết các ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng của nền kinh tế nước ta.
Các Tổng công ty có sức mạnh cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước. Một số loại sản phẩm của một số ngành kinh tế do các Tổng công ty sản xuất đã và đang có vị trí đứng ở thị trường nước ngoài, tạo khả năng tự cân đối được kim ngạch xuất nhập khẩu nhhư ngành Rượu - bia - nước giải khát, thuốc lá, Than, May mặc, Dầu khí.
Nhìn chung các Tổng công ty có khả năng và thực lực để thực hiện các nhiệm vụ và chiến lược phát triển ngành do Chính phủ giao. Các Tổng công ty 91 v à 90 đã được tổ chức và hoạt động ở tất cả các ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng của đất nước. Do tiềm hợp vê số lượng các doanh nghiệp thành viên và nguồn lực tích tụ, tập trung vốn, vào động, khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý, nên các Tổng công ty đã có vai trò chủ đạo và chi phối cả trong sản xuất và thị trường đối với các ngành kinh atế. Đối với một số ngành kinh tế lớn, vai trò tác dụng của Tổng công ty ở chỗ tạo lập được trật tự trong sản xuất và thị trường tiêu thụ thông qua cơ chế thống nhất quản lý  và điều hành toàn Tổng công ty và trực tiếp ký hợp đồng vơí các hộ tiêu thụ lớn, ổn định, lâu dài. Điểm hình nhất là Tổng công ty Than, Tổng công ty Điện lực trong quản lý thống nhất các đầu mối tiêu thụ. Còn hầu hết các Tổng công ty đều quản lý thống nhất được các đầu mối thị trường xuất nhập khẩu.
* Đa ngành, đa lĩnh vực trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có ngành chủ đạo mang tên của Tổng công ty.
Thực tế hoạt động đã khẳng định được hướng hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực của các Tổng công ty là đúng đắn, nâng cao được hiệu quả và vị trí của mỗi Tổng công ty trong cơ chế kinh tế thị trường đa thành phần với mở cửa với thị trường bên ngoài, thích ứng được với các tình huống chuyển đổi  của nền kinh tế. Kinh nghiệm và thực tế hiện nay cho thấy đa dạng hoá hoạt động theo đa ngành, đa lĩnh vực có ngành kinh tế chủ lực là thiết thực, đem lại hiệu quả cao đối với các Tổng công ty.
3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động sản xuất của Tổng công ty.
Qua gần 6 năm hoạt động, bên cạnh những thành tích đạt được, mô hình Tổng công ty Nhà nước cũng đã Bộc lộ một số mặt còn yếu kém.
3.1. Về tổ chức  và các mối quan hệ, chức năng phân cấp hoạt động.
3.1.1. Vai trò của Hội đồng quản trị
Theo điều lệ mẫu Tổng công ty, cơ cấu và Bộ máy của mô hình Tổng công ty mới gồm có: HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và Bộ máy giúp việc. Tổng công ty được quản lý bởi  HĐQT và được điều hành bởi Tổng giám đốc. Nhưng trong thực tế thời gian qua, vai trò của HĐQT trong các Tổng công ty hầu như rất mờ nhạt. Có một số Tổng công ty đã hoạt động vài năm rồi mà vẫn chưa đủ số lượng thành viên HĐQT. Cá biệt, có Tổng công ty cho tới tận đầu năm 1999 mới có chủ tịch HĐQT. Theo báo cáo của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương thì “Qua thực tế hoạt động cho thấy một số thành viên HĐQT không đủ năng lực dù thiếu am hiểu chuyên môn quản lý, chưa gắn bó với hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty”. Và chức danh Chủ tịch HĐQT cũng gây nhiều tranh cãi trong giới doanh nghiệp. Nhiều người cho rằng, Chủ tịch HĐQT là một chức danh “hữu danh vô thực, là nơi để giải quyết chính sách” cho các cán Bộ đã quá tuổi nhưng chưa về hưu... Phát biểu tại hội nghị tổng kết mô hình Tổng công ty, hầu hết ý kiến của các đại biểu đều cho rằng, thời gian qua HĐQT đã không khẳng định được vị trí của mình trong Tổng công ty. Điều đó một phần do cơ chế, chính sách chưa rõ ràng, nhưng phần chủ yếu vẫn là cán Bộ thành viên của HĐQT không đủ năng lực để đảm nhận nhiệm vụ mới mẻ này, đặc biệt là chức danh HĐQT.
3.1.2. Mối quan hệ giữa HĐQT và ban Tổng giám đốc.
Cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc trong các quyết định về quyền đại diện chủ sở hữu tài sản Nhà nước trong DNNN, vai trò và trách nhiệm của Chủ tịch HĐQT chưa được xác định rõ nên đôi khi vẫn chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa HĐQT và ban TGĐ. Cùng một số vốn được giao nhưng cả Chủ tịch HĐQT và TGĐ đều phải ký nhận. Như vậy, trách nhiệm thì tập thể nhưng người điều hành chỉ là Tổng giám đốc. HĐQT tuy có trách nhiệm giám sát nhưng vốn của các DNNN lại không thuộc quyền sở hữu của mình. Do đó, trách nhiệm và quyền hạn của HĐQT cũng bị giới hạn. Hiện nay, giám đốc của các doanh nghiệp thành viên chủ lực hầu hết chưa tham gia HĐQT của Tổng công ty vì muốn tách chức năng quản lý và chức năng điều hành, nhưng thực tế hai chức năng này gắn bó tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty. Có nơi HĐQT trong khi chưa thực hiện tốt chức năng. Chủ yếu như xây dựng chiến lược, quyết định dự án đầu tư, lựa chọn cán bộ nhưng lại sa vào lĩnh vực điều hành của Tổng giám đốc. Có nơi Tổng giám đốc quyết định các vấn đề thuộc quyền hạn của chủ tịch HĐQT. Lại có nơi chủ tịch HĐQT lại bao biện công việc điều hành của giám đốc. Thực tế hiện nay cho thấy, nơi nào uy tín và trình độ của chủ tịch HĐQT cao hơn thì thường can thiệp vào hoạt động kinh doanh, lấn quyền của giám đốc, biến HĐQT thành cơ quan chủ quản của doanh nghiệp. Ngược lại, nơi nào trình độ và uy tín của Tổng giám đốc cao hơn thì vai trò của HĐQT trở lên mờ nhạt. Sở dĩ có tình trạng trên là vì quyền hạn và trách nhiệm ở đây được phân công không xuất phát từ lợi ích kinh tế mà hoàn toàn xuất phát từ năng lực quản lý hành chính.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA011 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)