Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA285 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Hội nhập AFTA cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam

Trong xu hướng quỗc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, với những cấp độ toàn cầu hoávà khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động , quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu; vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, việc hình thành các liên kết khu vực ngày một phát triển, hầu hết các quốc gia đang chuyển sang mô hình kinh tế với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1787 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 22-06-2012 04:23:00 PM
Mã Tài liệu
DA285
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AFTA
 

I /  Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó

          Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá.
          Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trườngthế giới thống nhất, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu , là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu;là việc giải quyết các vấn đề kinh tế –xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số,tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ mội trường sinh thái…Trong khi đó , khuvực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng minh (Liên minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ,thị trường chung, đồng minh kinh tế…Nhằm mục đích hợp tác,hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển tư bản,lực lượng lao động, hàng hoá dịch vụ …Tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực.
         Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển (hay còn gọi là các quốcgia công nghiệp phát triển), thì xu hướng tham gia hội nhập vào nềnkinh tế các nước trong khu vực và bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế khu vực, từng bước tiến tới sự nhất thể hoá cao thông qua các văn bản,hiệp định kí kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như phải gánh vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như các miễn giảm khácv.v..(các quốc gia trong hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA ), các quốc gia trong liên minh châu âu(EU) là những liên kết phản ánh rõ nét các xu hướng trên). Kinh tế giữa các nước thành viên.Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh ,tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên.
          Thị trường chung: Đây là một liên minh quốctế ở mức độ cao hơn liên minh thuế quan,tức là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao đổi thương maị, hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất (các quốc gia trong cộng đồng kinh tế Châu Âu).
         Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo thoả thuận này các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong khối.
        Liên minh kinh tế: Đây là một liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng hoá,dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước không phải là thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên còn thực hiện thồng nhất các chính sách kinh tế; tài chính, tiền tệ.(Liên minh Châu Âu: EU từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế ).

II/ Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA

1.     Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới

        Có thể nói rằng toàn cầu hoá, khu vực kinh tế là xu hướng đang chiếm ưu thế trong nền kinh tế hiện đại, do đó thương mại quốc tế ngày càng được tự do hoá. Đã xuất hiện nhiều tổ chức kinh tế manh tính khu vực như EU, APEC, AFTA , Asean…. Trình độ quốc tế càng cao thì tỷ trọng trao đổi giữa các quốc gia càng lớn. Theo một báo cáo về tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn 1990-2000 của WB (lấy giá năm 1988 làm chuẩn) thì thị trường thế giới về các ngành công ngiệp quan trọng nhất tăng từ 6.188 tỷ USD năm 1973 lên 7683 tỷ năm 1980 và 9852 tỷ USD năm 1988 và dự kiến năm 2000 sẽ tăng lên tới 14522 tỷ USD trong đó trao đổi giữa các quốc gia chiếm tỷ trọng ngày càng tăng từ 15,3% năm 1973 lên 22,8% năm 1988 và dự kiến đến năm 2000 sẽ là 28,5% .
Điều gì đã làm cho thương mại thế giới phát triển như ngày nay ? Đó là sự bùng nổ của tự do hoá trương mại khu vực và toàn cầu thể hiện qua việc xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức kinh tế mang tính khu vực. Tự do hoá thương mại được khởi xướng ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Ở Châu Á, tiếp sau Nhật Bản là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapo đã theo đuổi  chính sách hướng ngoại, mở cửa và tích cực hội nhập vào thị trường quốc tế ; thực hiện tự do hoá từng bước . Kết quả bốn nước này đã tăng thu nhập đầu người từ mức 20% so với các nước công nghiệp vào năm 1965 lên 70% vào năm 1995. Con đường hướng ngoại,thực hiện tự do hoá thương mại được thực hiện tiếp nối ở Chi Lê, Malayxia và Thái Lan vào đầu thập niên 70 và sau đó là Trung Quốc vào đầu thập niên 80. Nhiều người cho rằng khi hội nhập vào kinh tế khu vực sẽ giảm bảo hộ sản xuất trong nước, do đó sẽ tăng thất nghiệp và giảm tăng trưởng. Lịch sử đã chứng minh không một nước nào có thể đạt tốc độ phát triển nhanh mà không mở cửa kinh tế, không tích cực hội nhập . Theo WB số người sống ở mức nghèo khổ ở Châu á (dưới 1USD/ ngày) đã giảm từ 700tr người xuống còn 300tr người năm 1995. Trung quốc nhờ thoả thuận với Mỹ mở cửa thị trường hơn nữa và chuẩn bị ra nhập WTO sẽ làm cho thu nhập quốc dân tăng thêm 30% năm nhờ vậy tăng thêm 12 triệu việc làm.
        Rõ ràng xu hướng khu vực hoá Kinh tế là tất yếu. Nó mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên . Một  quốc gia nào đó gia nhập các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đưa lại những lợi ích chủ yếu sau đây:
        Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trongliên minh với các nước, các khu vực khác trên thế giới. Cũng  trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là công nghiệp của các nước chủ nhà có chi phí cao (lãng phí nguồn lực) bằng những ngành có chi phí  thấp hơn (tức có hiệu quả hơn) của những quốc gia nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước chủ nhà luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó giá hàng hoá giảm xuống làm cho người dân ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lón hơn mức chi phí thấp hơn.
        Hai là, Hội nhập khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch. Sự chuyển hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan, vì khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn.
        Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn (do được hưởng chính sách ưu đãi thuế quan…) Chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên (tức là thay thế những người cung cấp sản phẩm cùng loại có chi phí thấp hơn nhưng không được hưởng các chính sách ưu đãi bằng những người cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn (kém hiệu quả ) nhưng được hưởng sự ưu đãi của khối.
       Có thể đưa ra một ví dụ giản đơn để minh hoạ như sau: Trước đây Singapo thường nhập cà phê của Braxin với giá thấp hơn của Việt Nam vì giá cà phê cuả Braxin là 1500 USD/ tấn còn Việt Nam là 1600USD/tấn với mức thuế nhập khẩu cho cả hai trường hợp là 20%. Nhưng sau khi Việt Nam ra nhập liên minh thuế quan thì  bây giờ giá ca phê nhập khẩu từ Việt Nam không bị đánh thuế nữa và chỉ là 1600 USD/tấn thấp hơn giá cà phê nhập từ Braxin (1800USD/ tấn) vì có thuế nhập khẩu là 20%. Chính  vì vậy, việc nhập khẩu cà phê của Singapore sẽ chuyển hướng từ thị trường Braxin sang thị trường Việt Nam.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA285 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)