Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA161 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của khẩu hiệu "Tiết kiệm là quốc sách"

Sản xuất là hoạt động cơ bản của con người. Mọi xã hội muốn tồn tại và phát triển phải duy trì sản xuất. Nhưng trong những điều kiện, muốn cho sản xuất có hiệu quả và phát triển nhanh chóng thì sản xuất phải gắn liền với tiết kiệm. Có thể nói, hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển nhanh chóng, nó đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư lớn và đang ngày càng trở nên cấp thiết hơn.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2021 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 20-06-2012 03:11:49 PM
Mã Tài liệu
DA161
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
1.1.          Khái niệm về tiết kiệm
 
Khi nói về tiết kiệm thì mỗi nhà kinh tế lại đưa ra khái niệm khác nhau. Nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ cho rằng: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tăng tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên “
 
Sang đến thế kỷ 19, C.Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiêt kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Như vậy, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để táI sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
 
Đúc kết quan điểm của các nhà kinh tế học khác nhau, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta và đưa ra khái niệm về tiết kiệm: “ Tiết kiệm là một quy luật, một phương pháp của một chế độ kinh tế, không phải chỉ tiết kiệm khi đất nước còn nghèo, mà ngay cả khi giàu có và càng giàu có càng phải thực hành tiết kiệm “. Bác luôn nhấn mạnh “ tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là 2 vấn đề mấu chốt để xây dựng, phát triển kinh tế, phát triển văn hoá xã hội, để cải thiện đời sống nhân dân “. Tư tưởng quan điểm của Bác là “ làm ra nhiều, chi dùng nhiều. Không cần thì không chi dùng. Đó là tất cả chính sách kinh tế của nước ta “. Tiết kiệm - theo Bác “ cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân! “
 
Như vậy, tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác ở mức thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định nhưng vẫn đạt được mục tiêu xác định hoặc sử dụng đúng định mức nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định ( Pháp lệnh của UBTVQH số 02/1998/PL - UBTVQH10 )
 
1.2.          Bản chất của tiết kiệm
 
Tiết kiệm trong mọi thời điểm rất dễ bị hiểu sai lệch, chúng ta cần phải tìm hiểu cặn kẽ và đúng đắn bản chất của tiết kiệm để trong quá trình thực hành và vận dụng trong thực tiễn có thể đúng hướng.
 
Tiết kiệm là với chi phí thấp nhất để đạt hiệu quả cao nhất. Tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn “ không phải xem đồng tiền to bằng cái nống, gặp việc đáng làm không làm, đáng tiêu không tiêu. Tiết kiệm phải được thực hiện một cách toàn diện, hoàn chỉnh bao gồm cả tiết kiệm của riêng, tiết kiệm của công. Nếu không biết tiết kiệm của riêng thì không thể tiết kiệm của công được. Nhưng nếu chỉ lo tiết kiệm của riêng mà phung phí của công là không đúng. Tiết kiệm không chỉ lao động và tiền mà cả thời giờ “, Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Chúng ta cần có sự tính toán cân nhắc thận trọng, khi nào không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng việc đáng làm vì ích nước, đồng bào thì tiêu bao nhiêu, tốn bao nhiêu chúng ta cũng sẵn sàng thực hiện “.
 
Trong thời điểm hiện nay, với chủ trương “ kích cầu “ của Nhà nước, tuy nhiên chúng ta phải xem xét và khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa việc khuyến khích tiêu dùng và thực hành tiết kiệm. Tiết kiệm và kích cầu là hai vấn đề gắn bó với nhau nhưng hoàn toàn khác nhau. Tiết kiệm không có nghĩa là chi ít mà chi đúng và chi có hiệu quả. Thực hành tiết kiệm đồng thời với việc không chấp nhận việc tiêu dùng xa hoa, lãng phí, cần tiêu 1 mà tiêu 3, cần tiêu 3 lại tiêu 7. Bản thân từng người lao động, từng doanh nghiệp được Nhà nước ta khuyến khích tiêu dùng để thúc đẩy sản xuất bởi tiêu dùng là một khâu trong vòng tròn khép kín: sản xuất - lưu thông - phân phối - tiêu dùng. Đây chính là bản chất của tiết kiệm. Chúng ta hiểu và biết kết hợp hai vấn đề “ kích cầu “ và tiết kiệm để phát triển sản xuất. Như vậy mới có thể phát triển kinh tế được.
 
1.3.          Các nguồn tiết kiệm
 
1.3.1.   Tiết kiệm trong khu vực Nhà nước
 
-         Tiết kiệm trong thu chi ngân sách Nhà nước ( NSNN ) :
 
Khoản này còn được gọi là vốn ngân sách chi cho phát triển kinh tế xã hội. Tiết kiệm của ngân sách được xác định bằng thu ngân sách trừ đi chi thường xuyên. Tiết kiệm của ngân sách phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thu, chi ngân sách và chất lượng đầu tư của chính phủ. Trong trường hợp bội chi ngân sách, Nhà nước sẽ phải đi vay hoặc xin viện trợ để bù đắp vào khoản thiếu hụt đó. Ở nước ta, phần bù đắp cho thâm hụt ngân sách chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ODA và vay trong dân. Hai kênh này sẽ được bàn đến trong từng phần riêng biệt. Vì thế, phần vốn từ NSNN ở đây chủ yếu được hiểu là phần tích luỹ từ nguồn thu trong nước của ngân sách, sau khi đã chi trả cho các khoản chi thường xuyên, dự phòng hoặc trả nợ.
 
-         Tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ) :
 
Để tiến hành đầu tư sản xuất, nhiều doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư bằng vốn huy động từ phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh các nguồn vốn khác như vay trực tiếp từ dân cư, vay nước ngoài hoặc nhận từ NSNN. Để tránh trùng lặp với các nguồn vốn khác, phần này cũng chỉ phân tích sâu vào nguồn tiết kiệm của bản thân các doanh nghiệp này mà thôi.
 
1.3.2.   Tiết kiệm trong khu vực tư nhân
 
-         Tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ):
 
Mặc dù là một khu vực kinh tế tương đối non trẻ so với khu vực Nhà nước, nhưng khu vực tư nhân Việt Nam đang chứng tỏ một sức vươn lên mạnh mẽ và đầy hứa hẹn trong tương lai. Khu vực tư nhân của Việt Nam hiện nay bao gồm nông dân, các doanh nghiệp hộ gia đình, DNTN vừa và nhỏ ( SMEs ) và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối lớn.
 
-         Tiết kiệm của các tầng lớp dân cư :
 
Nguồn vốn trong dân luôn là một nguồn rất lớn, và có nhiều khả năng tăng cường huy động để phát triển kinh tế. Cơ sở chủ yếu để huy động nguồn vốn này chính là tiết kiệm trong dân cư. Nếu các kênh huy động vốn hoạt động có hiệu quả thì đại bộ phận nguồn tiết kiệm trong dân đó sẽ sẵn sàng tích trữ nguồn tiết kiệm đó dưới dạng mua vàng, ngoại tệ hoặc các tài sản có giá trị, thay vì gửi chúng vào ngân hàng hay các kênh huy động tài chính khác. Đó sẽ là một sự lãng phí nguồn lực rất lớn đối với một đất nước còn đang rất khát vốn đầu tư như chúng ta. Có được vốn huy động rồi , nếu muốn biến chúng thành vốn đầu tư thực hiện, đòi hỏi ngân hàng và các tổ choc tín dụng phải có những chính sách cho vay hấp dẫn, môi trường đầu tư thuận lợi đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất. Vì thế, tăng cường thu hút vốn trong dân mà không có các biện pháp khuyến khích đầu tư thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng trong ngân hàng như tình hình của Việt Nam trong những năm 1996 - 1997.
 
1.4.          Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề: tiết kiệm là quốc sách
 
- Thái Lan: Năm 1997, Thái Lan đang đắm chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới đã được chứng kiến hình ảnh cảm động người dân Thái lũ lượt đi quyên góp để cứu ngân khố nước nhà. Có lẽ cũng từ kinh nghiệm đó, lúc này đang có ngày càng nhiều nhà nghiên cứu, phân tích kinh tế Thái Lan lên tiếng kêu gọi Chính phủ thực hiện chủ trương tiết kiệm để giải quyết những khó khăn kinh tế - xã hội của đất nước.
 
Có điều, tiết kiệm ở đây không theo nghĩa thông thường, mà phải là sự kết hợp vận động của tất cả các lĩnh vực tâm lý, xã hội, hành chính . . . thông qua cả khu vực Nhà nước lẫn khu vực tư nhân. Theo báo Matichon, một tờ báo lớn có uy tín ở Thái Lan, tiền gửi tiết kiệm dù chỉ là phần của thu nhập còn dư lại sau khi chi tiêu nhưng có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy kinh tế ở cấp vĩ mô cũng như trong ổn định kinh tế của các cá nhân, các tổ chức tư nhân. Tờ báo viết: ở cấp vĩ mô, nếu ngành kinh tế nào không đủ tiền tiết kiệm cho đầu tư theo mong muốn của ngành mình thì sẽ phải lệ thuộc vào đầu tư từ bên ngoài một cách triền miên. Do vậy, tiền tiết kiệm trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Các nhà lãnh đạo kinh tế cần phải xây dựng điều kiện và môi trường thu hút thích hợp để hạn chế việc xảy ra tình trạng quá nóng đồng thời đầu tư ở mức thích hợp với lượng tiền tiết kiệm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp tình hợp lý.
 
Đối với việc gửi tiết kiệm từ khu vực tư nhân, hệ thống điều hành tốt của các tổ chức, tức là mức độ minh bạch, công bằng trong làm việc ( người lãnh đạo không tham nhũng của công ty và của các cổ đông ) cũng góp phần tạo ra tiền gửi tiết kiệm ( bao gồm cả phần dư của số lãi từ phân chia lợi nhuận mà cổ đông được hưởng ) một cách có hiệu quả.
 
Đối với khu vực Nhà nước, tiền gửi tiết kiệm bao gồm phần thu nhập thực sự còn lại sau khi chi tiêu sẽ xuất hiện khi công tác điều hành hoạt động tốt. Tiền NSNN không bị biển thủ dẫn tới chi tiêu hợp lý vào các dự án đúng đắn. Nói tóm lại là phải có tầm nhìn tài chính trong khu vực Nhà nước để tạo ra được số dư tiết kiệm.
 
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA161 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)