Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA125 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Chính sách xoá đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và giải pháp.

Trong lịch sử của xã hội loài người, đặc biệt từ khi có giai cấp đến nay, vấn đề phân biệt giầu nghèo đã xuất hiện và đang tồn tại như một thách thức lớn đối với phát triển bền vững của từng quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện đại. Đói nghèo và tấn công chống đói nghèo luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới, bởi vì giầu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của một quốc gia. Đói nghèo thường gây ra xung đột chính trị, xung đột giai cấp, dẫn đến bất ổn định về xã hội, bất ổn về chính trị. Mọi dân tộc tuy có thể khác nhau về khuynh hướng chính trị, nhưng đều có một mục tiêu là làm thế nào để quốc gia mình, dân tộc mình giầu có. Trong thực tế ở một số nước cho thấy khi kinh tế càng phát triển nhanh bao nhiêu, năng suất lao động càng cao bao nhiêu thì tình trạng đói nghèo của một bộ phận dân cư lại càng bức xúc và có nguy cơ dẫn đến xung đột.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1868 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 20-06-2012 11:17:11 AM
Mã Tài liệu
DA125
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng

Chương I

Cơ sở lý luận về chính sách kinh tế xã hội và vấn đề nghèo đói, chính sách xoá đói giảm nghèo đối với vùng đồng bào các đân tộc thiểu số ở nước ta.
 

I Cơ sở lý luận về chính sách kinh tế xã hội

     1 Các khái niệm cở bản về chính sách kinh tế xã hội.
1.1 Khái niệm chính sách
           Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể hay tổ chức nhất định khẳng định và tổ chức thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
           Chính sách giúp các nhà quản lý xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Giúp họ thấy được phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Từ đó chính sách sẽ hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện mục tiêu chung của tổ chức.
1.2 Khái niệm chính sách kinh tế xã hội
            Chính sách kinh tế xã hội là tổng thể các giải pháp và công cụ do nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội xây dựng và tổ chức thực hiện để giải quyết những vấn đề chính sách nhằm thực hiện mục tiêu bộ phận theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.                     
     2 Đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế xã hội
-         Chính sách kinh tế xã hội là các hình thức mà Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Thông qua các quyết định của nhà nước tác động lên các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế hướng họ theo mục tiêu chung của quốc gia trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành.       
-         Chính sách kinh tế xã hội là hành động can thiệp của nhà nước trước một vấn đề chính sách chín muồi. Đó là những vấn đề lớn có phạm vi ảnh hưởng đến toàn bộ đất nước cần được giải quyết ngay.
-         Các mục tiêu của chính sách kinh tế xã hội là mục tiêu bộ phận, có thể mang tính ngắn hạn huặc dài hạn và được thực hiện trên cơ sở hướng vào mục tiêu tổng thể của đất nước.
-         Chính sách kinh tế xã hội không chỉ là những cách thức được đưa ra mà nó còn bao hàm cả quá trình thực hiện chính sách đó. Khi  Nhà nước đưa ra văn bản về chính sách đã được các cấp có thẩm quyền thông qua thì đó vẫn chưa phải là chính sách. Chính sách kinh tế xã
hội bao hàm cả hành vi thực hiện những kế hoạch được thể hiện         trong chính sách và đưa lại những những kết quả thực tế tiễn.Việc hiểu chính sách kinh tế xã hội một cách giản đơn là những chủ trương, chế độ mà nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách và những kết quả thực tiễn thu đựơc thì chính sách đó chỉ là những khẩu hiệu.  
-         Mục tiêu chính sách kinh tế xã hội là mục tiêu chung của nhiều nguời huặc của xã hội. Tuy nhiên một chính sách khó có thể đều đem lại lợi ích cho tất cả mọi người, khi đó chính sách được lựa chọn là chính sách đem lại lợi ích cho đa số mọi người. Thước đo chính để đánh giá, so sánh và lựa chọn chính sách phù hợp là lợi ích mang tính xã hội mà chính sách đó đem lại.
-         Việc xây dựng chính sách kinh tế xã hội có sự tham gia từ nhiều phía nhiều tổ chức khác nhau trong đó Nhà nước với tư cách là người tổ chức  và quản lý xã hội xây dựng và chịu trách nhiệm tổ chức thực thi. tuy nhiên ngày nay chính sách kinh tế xã hội không chỉ do các cơ quan tổ chức của nhà nước xây dựng mà nó có sự tham gia của nhiều cơ quan tổ chức ngoài nhà nước.
-         Chính sách kinh tế xã hội có phạm vi ảnh hưởng lớn, nó tác động đến nhiều đối tượng, đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
     3 Giải pháp và công cụ của chính sách kinh tế xã hội  
3.1 Giải pháp chính sách kinh tế xã hội
             Giải pháp chính sách  kinh tế xã hội là phương thức hành động của nhà nước để đạt được mục tiêu. Để đạt được mục tiêu nhà nước phải xác định một hệ thống các giải pháp và mỗi chính sách đều có giải pháp riêng của mình. Có thể phân loại các giải pháp dưới nhiều tiêu trí khác nhau một trong những cách đó là phân loại theo phương thức tác động bao gồm các giải pháp tác động trực tiếp vào mục tiêu và các giải pháp tác động gián tiếp vào mục tiêu của chính sách. Với các giải pháp tác động trực tiếp vào mục tiêu, Nhà nước tham gia vào thị trường, vào đời sống kinh tế xã hội thông qua những chính sách những quy định cụ thể về các hoạt động kinh tế xã hội từ đó tác động tới mục tiêu một cách trục tiếp. Các giải pháp tác động gián tiếp vào mục tiêu được sử dụng nhằm tạo ra những phản ứng có lợi cho việc mục tiêu từ những chủ thể kinh tế xã hội. 
3.2 Những nhóm công cụ của chính sách kinh tế xã hội
-         Nhóm công cụ kinh tế là các ngân sách, các quỹ, hệ thống đòn bẩy và khuyến khích kinh tế như thuế, lãi suất, giá cả, tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm, tỷ giá hối đoái... 
-         Nhóm các công cụ hành chính tổ chức bao gồm các công cụ mô hình các tổ chức, bộ máy và đọi ngũ cán bộ, công chức, các công cụ hành chính là các kế hoạch của nhà nước và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
-         Nhóm công cụ tuyên truyền, giáo dục là hệ thống thông tin đại chúng, hệ thống thông tin chuyên ngành, hệ thống giáo dục và đào tạo, hệ thống các tổ chức tổ chức chính trị, xã hội và đoàn thể.
-         Các công cụ kỹ thuật, nghiệp vụ đặc trưng cho từng chính sách.
     4 Vai trò của chính sách kinh tế xã hội   
Chính sách kinh tế xã hội có vai trò hết sức to lớn thể hiện ở những chức năng cơ bản sau:
-         Chức năng định hướng giúp các củ thể kinh tế xã hội có được những chỉ dẫn ra quyết định vạch ra phạm vi giới hạn cho phép của những quyết định, hướng suy nghĩ hành động của các chủ thể vào việc thực hiện mục tiêu chung của quốc gia. Chính sách kinh tế xã hội cũng định hướng việc huy động phân bổ và sử dụng nguồn lực nhằm giải quyết những vấn đề chính sách một cách kịp thời và có hiệu quả.
-         Chức năng điều tiết của những chính sách do Nhà nước ban hành giúp Nhà nước giải quuyết những vấn đề bức xúc phát sinh trong đời sống kinh tế xã hội , điều tiết những mất cân đối, những hành vi không phù hợp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý cho các hoạt động xã hội theo các mục tiêu đề ra.
-         Chức năng tạo tiền đề cho sự phát triển đây chức năng quan trọng nhất của chính sách xây dựng và nâng cấp các yếu tố quyết định sự phát triển như giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hệ thống thông tin và các thị trường vốn.
-         Chức năng khuyến khích sự phát triển đây là chức năng tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội. Bản thân mỗi chính sách khi hướng vào giải quyết một vấn đề bức xúc đã làm cho sự vật phát triển thêm một bậc. Đồng thời khi giải quyết vấn đề đó thì chính sách lại tác động lên vấn đề khác, làm nẩy sinh những vấn đề mới.    
II Vấn đề nghèo đói
     1 Các quan điểm tiếp cận vấn đề nghèo đói
1.1 Theo cách tiếp cận hẹp
Nghèo đói là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cư là thấp nhất so với mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cư khác.
Theo cách tiếp cận này về vấn đề nghèo đói chưa bao quát được tính chất tuyệt đối của nghèo đói, nghĩa là mới chỉ đánh giá theo tiêu chuẩn nghèo đói tương đối, mà trên thực tế thì lúc nào trong xã hội hiện đại cũng tồn tại nghèo đói kể cả ở những quốc gia giầu nhất. Nếu đứng trên phương diện so sánh mức sống, mức thu nhập của các nhóm dân cư thì lúc nào cũng có một nhóm dân cư đứng thấp nhất, nhóm đứng cao nhất và các nhóm trung bình. Đó là nghèo đói tương đối. Nhưng thực tế ở nhiều quốc gia nghèo, ngay trong nhóm nghèo nhất cũng đã xuất hiện nhóm nghèo đói tuyệt đối, nghĩa là họ sống một cuộc sống cùng cực, ở tạm bợ và lo lắng về từng bữa ăn.                 
 Cách tiếp cận này là cách tiếp cận phổ biến hiện nay. Những người theo quan điểm này có xu hướng tìm kiếm một chuẩn nghèo chung để đánh giá mức độ nghèo đói của từng nhóm dân cư, mà không đi sâu vào giải quyết những nguyên nhân sâu xa, những căn nguyên sâu xa, bản chất bên trong của vấn đề, tức là cơ chế nội tại của nền kinh tế đang hàng ngày hàng giờ đẩy một nhóm dân cư đi vào tình trạng nghèo đói như một xu thế tất yếu xẩy ra. Do đó các biện pháp tấn công nghèo đói đưa ra trên theo quan điểm này thường thiếu triệt để, họ chỉ dừng lại ở các biện pháp hỗ trợ tài chính, kinh tế, và các biện pháp kỹ thuật cho nhóm dân cư nghèo đói đó, nó sẽ không tạo được động lực để bản thân những người nghèo tự mình vươn lên trong cuộc sống.
1.2  Theo cách tiếp cận rộng
Vấn đề nghèo đói theo quan điểm này được tiếp cận từ phương pháp luận cho rằng căn nguyên sâu xa của nghèo đói là do trong xã hội có sự phân hoá giầu nghèo, mà chính sự phân hoá đó là hệ quả của chế độ kinh tế xã hội. Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, khi mà năng suất lao động còn thấp, chưa có tích luỹ thì giữa con người chưa có sự phân hoá giầu nghèo. Nhưng khi xã hội càng phát triển, có sự phân công lao động trong lực lượng sản suất, xã hội đã bắt đầu có tích luỹ thì cấu trúc xã hội trên quan hệ thị tộc cũng đã bắt đầu biến đổi, xuất hiện chiếm hữu tư nhân và trao đổi hàng hoá. Xã hội đã phân chia thành nhiều giai cấp, trong xã hội đã có người giầu người nghèo đây là mầm mống của những xung đột giữa các giai cấp. Cách tiếp cận rộng cho phép tiếp cận nghèo đói một cách toàn diện, đặt hiện tượng nghèo đói trong sự so sánh với giầu có và trong hoàn cảnh nhất định. Khi nói đến người nghèo chúng ta không thể không đặt họ vào sự so sánh toàn diện với người giầu, bằng cách đó chúng ta mới có thể nhìn thấu đáo hộ nghèo và đói như thế nào, từ đó lý giải một cách khoa học thực chất của quá trình dẫn tới đói nghèo.
        Từ những cách tiếp cận vấn đề nghèo đói chúng ta có thể rút ra được những kết luận sau:
-         Phân hoá giầu nghèo không những là hệ quả của các xã hội có giai cấp và phân chia giai cấp, mà còn thể hiện bản chất sâu xa của các xung đột xã hội giữa lớp người giầu lớp người nghèo. Giải quyết căn bản vấn đề này chỉ có thể trên cơ sở giải quyết căn bản vấn đề bất bình đẳng trong xã hội.
-         Phân hoá giầu nghèo là hiện tượng phát sinh trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy nếu không xử lý kịp thời, huặc không có cơ chế duy trì sự công bằng nhất định hay hạn chế quá trình làm trầm trọng thêm hố ngăn cách giữa lớp người giầu và lớp người nghèo, thì nguy cơ phân tầng xã hội, phân hoá giai cấp cũng sẽ diễn ra.
-         Chủ thể có đầy đủ khả năng điều hòa thu nhập giữa các nhóm dân cư là Nhà nước, tuy nhiên do bản chất nhà nước ở các chế độ, cũng như định hướng chính trị khác nhau là rất khác nhau nên năng lực cũng như tính triệt để của các giải pháp xủ lý hố ngăn cách giầu nghèo có thể dựa trên cách tiếp cận rộng hay hẹp tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia, trong từng thời điểm lịch sử nhất định.
     2 Các quan điểm về chỉ tiêu đánh giá về mức nghèo đói hiện nay  
            Cho đến nay dường như đã đi đến một cách tiếp cận tương đối thống nhất về đánh giá mức độ nghèo đói, đó là định ra một tiêu chuẩn hay một điều kiện chung nào đó, mà hễ ai có thu nhập hay chi tiêu dưới mức thu nhập chuẩn thì sẽ không thể có một cuộc sống tối thiểu hay đạt được những nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại trong xã hội. Trên cơ sở mức chung đó để xác định người nghèo hay không nghèo. Tuy nhiên khi đi sâu vào kỹ thuật tính chuẩn nghèo thì có nhiều cách xác định khác nhau theo cả thời gian và không gian. 
            ở đây cần phân biệt rõ mức sống tối thiểu và mức thu nhập tối thiểu. Mức thu nhập tối thiểu hoàn toàn không có nghĩa là có khả năng nhận được những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống. Trong khi đó mức sống tối thiểu lại bao hàm tất cả những chi phí để tái sản xuất sức lao động gồm năng lượng cần thiết cho cơ thể, giáo dục, nghỉ ngơi giải trí và các hoạt động văn hoá khác. Do vậy khái niệm về mức sống tối thiểu không phải là một khái niệm tĩnh mà là động, một khái niệm tương đối và rất phong phú về nội dung và hình thức, không chỉ tuỳ theo sự khác nhau về môi trường văn hoá, mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi về đời sống vật chất cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế.
2.1 Quan điểm của ngân hàng thế giới (WB)
- Trong việc lựa chọn tiêu thức đánh gía WB đã lựa chọn tiêu thức phúc lợi với những chỉ tiêu về bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học hành, mặc, thuốc men, dịch vụ y tế, nhà ở, giá trị hàng hoá lâu bền. Tuy nhiên báo cáo về những số liệu này về thu nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính xác bởi phần lớn người lao động tự hành nghề.
          - WB đưa ra hai ngưỡng nghèo:
            + Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực gọi là ngưỡng nghèo lương thực.
            + Ngưỡng nghèo thứ hai là bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực, gọi là ngưỡng nghèo chung.
         - Ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều tra mức sống 1998  là lượng lương thực, thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày. Người dưới ngưỡng đó thì là nghèo về lương thực. Dựa trên giá cả thị trường để tính chi phí cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi phí để mua rổ lương thực là 1.286.833 đồng/người/năm.
       - Cách xác định ngưỡng nghèo chung
          Ngưỡng nghèo chung  =(ngưỡng nghèo lương thực)+(ngưỡng nghèo phi lương thực)
          Ngưỡng nghèo được tính toán về phần phi lương thực năm 1998 là 503038 đồng/người/năm từ đó ta có ngưỡng nghèo chung là 1789871 đồng/người/năm.
2.2  Quan điểm của tổ chức lao động quốc tế(ILO)
-Về chuẩn nghèo đói ILO cho rằng để xây dựng rổ hàng hoá cho người nghèo cơ sở xác định là lương thực thực phẩm. Rổ lương thực phải phù hợp với chế độ ăn uống sở tại và cơ cấu bữa ăn thích hợp nhất cho những nhóm người nghèo. Theo ILO thì có thể thu được nhiều kcalo từ bất kỳ một sự kết hợp thực phẩm mà xét về chi phí thì có sự khác nhau rất lớn. Với người nghèo thì phải thoả mãn nhu cầu thực phẩm từ các nguồn kcalo rẻ nhất .
            - ILO cũng thống nhất với ngân hàng thế giới về mức ngưỡng nghèo lương thực thục phẩm 2100 kcalo, tuy nhiên ở đây ILO tính toán tỷ lương thực trong rổ lương thực cho người nghèo với 75% kcalo từ  gạo và 25% kcalo có được từ các hàng hoá khác được gọi là các gia vị. Từ đó mức chuẩn nghèo hợp lý là 511000 đồng/người/năm.  
2.3 Quan điểm của tổng cục thống kê Việtnam
            - Tiêu chuẩn nghèo theo tổng cục thống kê Việtnam được xác định bằng mức thu nhập tính theo thời gía vừa đủ để mua một rổ hàng hoá lương thực thực phẩm cần thiết duy trì với nhiệt lượng 2100 kcalo/ngày/người. Những người có mức mức thu nhập bình quân dưới ngưỡng trên được xếp vào diện nghèo.        
2.4 Quan điểm của bộ lao động thương binh và xã hội
            - Theo quan điểm của bộ lao động thương binh và xã hội cho rằng nghèo là bộ tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng khu vực.
          - Bộ lao động thương binh và xã hội đã đưa ra chuẩn nghèo đói dựa những số liệu thu thập về hộ gia đình như sau :
            + Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong một     tháng quy ra gạo được 13 kg. 
            + Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập tuỳ theo vùng.
         Vùng nông thôn, miền núi hải đảo là những hộ có thu nhập dưới 15 kg gạo.
          Vùng nông thôn đồng bằng trung du dưới 20 kg gạo.
          Vùng thành thị dưới 25 kg gạo.
2.5 Các phương pháp đánh giá các chính sách của chính phủ về giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA125 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)