Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu QT052 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Các biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức lao động tại Bưu điện huyện Tủa Chùa

Để đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh thì vấn đề tổ chức lao động là một trong những công việc thực sự cần thiết trong quá trình quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. Đây là mục tiêu và là yếu tố quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay .


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2221 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 22-12-2012 02:31:36 PM
Mã Tài liệu
QT052
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG

TRONG DOANH NGHIỆP

 
1.1. LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG.
   1.1.1. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp.
a. Khái quát về lao động trong doanh nghiệp.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình sức lao động tác động lên đối tượng lao động thông qua tư liệu sản xuất nhằm tạo nên những vật phẩm, những sản phẩm theo mong muốn. Vì vậy, lao động là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất trong sự sinh tồn và phát triển của xã hội loài người.
Quá trình lao động là quá trình kết hợp giữa 3 yếu tố của sản xuất, đó là: Sức lao động - Đối tượng sản xuất - Tư liệu sản xuất.
- Mối quan hệ giữa con người với đối tượng sản xuất: ở đây cũng có những mối quan hệ mật thiết  tương tự như trên, đặc biệt là mối quan hệ giữa kỹ năng, hiệu suất lao động với khối lượng chủng loại lao động yêu cầu và thời gian các đối tượng lao động được cung cấp phù hợp với quy trình công nghệ và trình tự lao động. Mối quan hệ giữa người với người trong lao động gồm: Quan hệ giữa lao động quản lý và lao động sản xuất. Quan hệ giữa lao động công nghệ và lao động phụ trợ; Kết cấu từng loại lao động và số lượng lao động trong kết cấu đó; Quan hệ hiệp tác giữa các loại lao động.
- Mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và sức lao động bao gồm: Yêu cầu của máy móc thiết bị với trình độ kỹ năng của người lao động. Yêu cầu điều khiển và công suất thiết bị với thể lực con người. Tính chất đặc điểm của thiết bị tác động về tâm sinh lý của người lao động. Số lượng công cụ thiết bị so với số lượng lao động các loại.
- Mối quan hệ giữa người lao động với môi trường xung quanh: Mọi quá trình lao động đều phải diễn ra trong một không gian nhất định, vì thế con người có mối quan hệ mật thiết với môi trường xung quanh như: gió, nhiệt độ, thời tiết, địa hình,độ ồn.
Nghiên cứu, nắm được và hiểu rõ các mối quan hệ trên để đánh giá một cách chính xác là vấn đề rất quan trọng, làm cho quá trình sản xuất đạt được hiệu quả tối ưu đồng thời đem lại cho con người những lợi ích ngày càng tăng về vật chất và tinh thần, con người ngày càng phát triển toàn diện và có phúc lợi ngày càng cao.
b. Vai trò của lao động trong doanh nghiệp.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp hay một tổ chức nào cũng được cấu thành nên bởi các cá nhân.Trước sự thay đổi nhanh chóng của cơ chế thị trường, môi trường kinh doanh cùng với xu thế tự do hoá thương mại, cạnh tranh ngày càng gay gắt, vai trò của yếu tố con người - lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Bưu chính – Viễn thông nói riêng đã và đang được quan tâm theo đúng tầm quan trọng của nó. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý, khai thác và phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ, lao động của doanh nghiệp làm sao có hiệu quả, tạo nên được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác. Lực lượng lao động này phải là những người có trình độ cao, được đào tạo cơ bản, có đạo đức, có văn hoá và đặc biệt là phải có phương pháp làm việc có hiệu quả.
1.1.2.  Đặc điểm của lao động trong ngành  Bưu chính - Viễn thông.
Trong quá trình lao động Bưu chính – Viễn thông( BCVT), tham gia vào quá trình sản xuất (truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận) ngoài mạng lưới các phương tiện, thiết bị thông tin, đối tượng lao động BCVT (tin tức) còn có các lao động BCVT. Do đặc thù của ngành BCVT là một ngành dịch vụ nên lao động BCVT có những nét đặc trưng riêng như sau:
        - Thứ nhất : tổ chức hoạt động sản xuất của ngành BCVT theo mạng lưới thống nhất dây truyền , để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm cần có sự phối kết hợp của nhiều đơn vị Bưu điện. Mỗi đơn vị làm những khâu công việc khác nhau nên lao động của các đơn vị này phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ, chuyên môn hoá.
       - Thứ hai : tính chất của ngành BCVT là vừa kinh doanh vừa phục vụ,  mạng lưới rộng khắp trên quy mô toàn lãnh thổ (từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo). Do đó, việc bố trí lao động hợp lý luôn là một vấn đề khó khăn, cấp bách. Bố trí lao động BCVT Phải đảm bảo nguyên tắc: bố trí đúng trình độ, đúng khả năng chuyên môn, tiết kiệm được lao động, khuyến khích được người làm việc ở vùng sâu, vùng xa, tiết kiệm được chi phí.
       - Thứ ba : do tính đa dạng của công việc nên lao động BCVT cũng rất đa dạng, bao gồm: Lao động khai thác (bưu, điện...), lao động kỹ thuật (tổng đài, dây máy..). Đối với các Bưu điện trung tâm, lưu lượng nghiệp vụ lớn thì cần có cán bộ khai thác viên chuyên trách. Với các Bưu điện huyện, khu vực có lưu lượng nghiệp vụ nhỏ cần có các cán bộ khai thác viên toàn năng, một lao động có thể khai thác tổng hợp các loại dịch vụ.
Đứng trước sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ hiện nay, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp BCVT nói riêng không ngừng đào tạo và đào tạo lại cán bộ ,đầu tư xây dựng, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý... nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả của quá trình lao động. Tuy nhiên, một vấn đề thực tế đặt ra là các doanh nghiệp này có đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại đến đâu mà nguồn lao động không được chú trọng đầu tư, phát triển đúng mức thì hiệu quả đem lại cũng hạn chế .
Với doanh nghiệp BCVT, sản phẩm của ngành là sản phẩm vô hình, do vậy nhân tố con người trong quá trình sản xuất, cung cấp dịch vụ sẽ làm tăng tính hữu hình của sản phẩm, dịch vụ. Chính vì thế, yếu tố con người trong các doanh nghiệp này không những quyết định đến số lượng mà còn quyết định đến chất lượng của sản phẩm dịch vụ.
  1.1.3. Thành phần và cơ cấu lao động trong ngành BCVT
 Lao động trong sản xuất kinh doanh bưu chính viễn thông là một bộ phận lao động cần thiết của toàn bộ lao động xã hội. Đó là lao động trong khâu sản xuất thực hiện chức năng sản xuất các dịch vụ bưu chính viễn thông. Lao động trong khâu sản xuất nói chung và ở các doanh nghiệp bưu chính viễn thông nói riêng chia làm hai bộ phận chủ yếu và thực hiện hai chức năng chính sau đây:
       - Bộ phận lao động trực tiếp thực hiện các dịch vụ bưu chính viễn thông như lao động làm các công việc bảo dưỡng, sửa chữa cáp, dây máy thuê bao, di chuyển lắp đặt máy điện thoại thuê bao, lao động chuyển mạch, vi ba, khai thác bưu chính, phát hành báo chí, giao dịch.... Hao phí lao động này nhập vào giá trị sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn thông. Bộ phận lao động này sáng tạo ra giá trị mới và tạo ra thu nhập quốc dân.
      - Bộ phận phục vụ thực hiện các dịch vụ bưu chính viễn thông.
Ngoài hai bộ phận lao động thực hiện hai chức năng chủ yếu của quá trình sản xuất kinh doanh, trong các doanh nghiệp bưu chính viễn thông còn có bộ phận lao động ngoài kinh doanh. Bộ phận lao động này nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và cơ chế quản lý. Trong ngành BCVT, căn cứ vào chức năng, nội dung công việc của từng loại lao động người ta chia lao động trong doanh nghiệp BCVT gồm có các loại sau:
a. Lao động công nghệ .
Tức là những lao động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh (truyền đưa tin tức) như lao động làm các công việc bảo dưỡng, sửa chữa cáp, dây máy thuê bao, lao động chuyển mạch, vi ba, khai thác bưu chính, phát hành báo chí, giao dịch, 101, 108, 116, chuyển phát nhanh, điện hoa, công nhân vận chuyển bưu chính, phát thư, điện báo...
b. Lao động quản lý .
Là những lao động làm các công việc tác động vào mối quan hệ giữa những người lao động và giữa các tập thể lao động của đơn vị nhằm thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Lao động quản lý thực hiện các công việc theo chức năng: định hướng, điều hoà, phối hợp, duy trì các mối quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh trong và ngoài ngành. Lao động quản lý được phân thành 3 loại:
- Viên chức lãnh đạo (Chủ tịch, phó chủ tịch, uỷ viên Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, kế toán trưởng. Trưởng, phó các ban tổng công ty. Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phó phòng Bưu điện tỉnh, thành phố, công ty dọc. Trưởng bưu điện quận, huyện, thị xã. Giám đốc, phó giám đốc các trung tâm, các công ty trực thuộc bưu điện Tỉnh, Thành phố. Trưởng, phó xưởng, cán bộ chuyên trách Đảng, đoàn thể).
- Viên chức chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ (Chuyên viên, kỹ sư, thanh tra, cán sự, kỹ thuật viên, kế toán viên, thủ quỹ, thủ kho, y bác sỹ, lưu trữ viên, kỹ thuật viên).
- Viên chức thừa hành, phục vụ (Nhân viên văn thư, lưu trữ, bảo vệ, kỹ thuật viên đánh máy, điện nước, lái xe, nhân viên phục vụ).
c. Lao động bổ trợ
Là những lao động làm các công việc tác động vào quá trình chuẩn bị, quá trình đảm bảo các điều kiện cho lao động công nghệ sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm ở các công ty, Bưu điện quận, huyện như vận chuyển cung ứng vật tư trong dây chuyền công nghệ, vệ sinh công nghiệp, kiểm soát chất lượng thông tin, bảo vệ kinh tế tại doanh nghiệp, tích cước, thu cước, hướng dẫn chỉ đạo kỹ thuật nghiệp vụ. (Trưởng, phó đài, đội trưởng, đội phó, phó Bưu điện huyện, thị. Trưởng bưu cục có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên, kiểm soát viên , nhân viên bảo vệ kinh tế kể cả người làm công việc tuần tra bảo vệ các tuyến cáp, nhân viên vệ sinh công nghiệp, kỹ sư điện tử, tin học lập trình cung cấp thông tin quản lý, tính cước; lái xe tải, nhân viên cung ứng vật tư. thủ kho phục vụ sản xuất, kỹ sư làm việc tại các xưởng, trạm, tổ sửa chữa thiết bị kỹ thuật viên, công nhân cơ điện, công nhân máy tính cập nhật, lưu trữ số liệu, tính cước).
Như vậy: Mỗi loại lao động nói trên có vai trò và nhiệm vụ nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh của ngành bưu chính viễn thông. Lao động công nghệ, quản lý có vị trí quyết định đến sự thành công hay thất bại trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cần có sự đồng bộ về trình độ nghề nghiệp thì mới có thể đáp ứng kịp thời với mọi biến động của thị trường.
 
1.2. TỔ CHỨC LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
    1.2.1. Khái niệm về tổ chức lao động
Quá trình lao động là một hiện tượng kinh tế xã hội và vì thế, nó luôn luôn được xem xét trên hai mặt: mặt vật chất và mặt xã hội. Về mặt vật chất, quá trình lao động dưới bất kỳ hình thái kinh tế -xã hội nào muốn tiến hành được đều phải bao gồm ba yếu tố: bản thân lao động, đối tượng lao động và công cụ lao động. Quá trình lao động chính là sự kết hợp tác dụng giữa ba yếu tố đó, trong đó con người sử dụng công cụ lao động để tác động lên đối tượng lao động nhằm mục đích làm cho chúng thích ứng với những nhu cầu của mình. Còn mặt xã hội của quá trình lao động được thể hiện ở sự phát sinh các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau trong lao động. Các mối quan hệ đó làm hình thành tính chất tập thể, tính chất xã hội của lao động.
Dù quá trình lao động được diễn ra dưới những điều kiện kinh tế xã hội như thế nào thì cũng phải tổ chức sự kết hợp tác động giữa các yếu tố cơ bản của quá trình lao động và các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau vào việc thực hiện  mục đích của quá trình đó, tức là phải tổ chức lao động.
Như vậy: Tổ chức lao động là một phạm trù gắn liền với lao động sống, với việc đảm bảo sự hoạt động của sức lao động. Thực chất, tổ chức lao động trong phạm vi một tập thể lao động nhất định là một hệ thống các biện pháp  đảm bảo sự hoạt động lao động của con người nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động và sử dụng đầy đủ nhất các tư liệu sản xuất.
Nghiên cứu tổ chức lao động cần phải tránh đồng nhất nó với tổ chức sản xuất. Xét về mặt bản chất, khi phân biệt giữa tổ chức lao động và tổ chức sản xuất chúng khác nhau ở chỗ: tổ chức lao động là một hệ thống các biện pháp để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của lao động sống. Còn tổ chức sản xuất là tổng thể các biện pháp nhằm sử dụng đầy đủ nhất toàn bộ nguồn lao động và các điều kiện vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục ổn định, nhịp nhàng và kinh tế. Đối tượng của tổ chức sản xuất là cả ba yếu tố của quá trình sản xuất, còn đối tượng của tổ chức lao động chỉ bao gồm lao động sống - yếu tố cơ bản nhất của quá trình sản xuất mà thôi.
Trong doanh nghiệp BCVT, tổ chức lao động là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của tổ chức sản xuất. Tổ chức lao động giữ vị trí quan trọng trong tổ chức sản xuất là do vai trò quan trọng của con người trong quá trình sản xuất quyết định. Cơ sở kỹ thuật của sản xuất dù hoàn thiện như thế nào thì quá trình sản xuất cũng không thể tiến hành được nếu không sử dụng sức lao động, không có sự hoạt động có mục đích của con người đưa cơ sở kỹ thuật đó vào hoạt động. Do đó, lao động có tổ chức của con người trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là điều kiện tất yếu của hoạt động sản xuất, còn tổ chức lao động là một bộ phận cấu thành của tổ chức quá trình sản xuất. Tổ chức lao động không chỉ cần thiết trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà nó cũng cần thiết trong trong các doanh nghiệp dịch vụ.
Do vậy, tổ chức lao động được hiểu là tổ chức quá trình hoạt động của con người trong sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản của quá trình lao động và các mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau nhằm đạt được mục đích của quá trình đó.
1.2.2. Sự cần thiết của công tác tổ chức lao động
 Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, lao động là nguồn chủ yếu để nâng cao tích luỹ, phát triển kinh tế và củng cố chế độ. Quá trình sản xuất đồng thời là quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quá trình sản xuất chỉ xảy ra khi có sự kết hợp giữa ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động của con người, thiếu một trong ba yếu tố đó quá trình sản xuất không thể tiến hành được.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động chỉ tác động được với nhau và biến đổi thành sản phẩm khi có sức lao động của con người tác động vào. Vì vậy, lao động của con người luôn là yếu tố chính của quá trình sản xuất, chúng ta rút ra được tầm quan trọng của lao động trong việc phát triển sản xuất như sau:
        - Phát triển sản xuất nghĩa là phát triển ba yếu tố của quá trình sản xuất cả về quy mô, chất lượng và trình độ sản xuất, do đó tất yếu phải phát triển lao động. Phát triển lao động không có nghĩa đơn thuần là tăng số lượng lao động mà phải phát triển hợp lý về cơ cấu ngành nghề, về số lượng và chất lượng lao động cho phù hợp với sự phát triển của sản xuất, tức là phát triển lao động phải tiến hành đồng thời với cách mạng kỹ thuật.
       - Cách mạng khoa học kỹ thuật là những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại, tiên tiến, xác lập được những hình thức lao động hợp lý hơn trên quan điểm giảm nhẹ sức lao động, cải thiện đối với sức khoẻ con người, điều kiện vệ sinh, môi trường, bảo hộ, tâm sinh lý và thẩm mỹ trong lao động.
       - Lao động là nguồn chủ yếu để nâng cao tích luỹ, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của toàn xã hội loài người. Vì vậy tổ chức lao động hợp lý hay không sẽ ảnh hưởng đến các vấn đề như quyết định trực tiếp đến năng suất lao động cao hay thấp; ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và giá thành sản phẩm; Đảm bảo thực hiện tốt hay xấu các chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch và các công tác khác; Quan hệ sản xuất trong xí nghiệp có được hoàn thiện hay không, có ảnh hưởng đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển hay không vv…
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu QT052 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác
Số ký tự được gõ là 250

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)