Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu KT146 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng

Hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp sản xuất nói chung và trong Doanh nghiệp kinh doanh xây lắp nói riêng đã và đang là một vấn đề được nhiều nhà kinh doanh quan tâm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu quan trọng trong bất kỳ Doanh nghiệp nào, hai chỉ tiêu này luôn có mối quan hệ khăng khít và không tách rời nhau. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay thì vấn đề tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao lợi nhuận, tăng tích luỹ cho Doanh nghiệp, nó là tiền đề đảm bảo cho sự tồn tại, củng cố chỗ đứng của Doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Để làm tốt công việc này, đòi hỏi các Doanh nghiệp cần tổ chức công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chế độ quy định và đúng phương pháp để từ đó có những biện pháp cụ thể tiết kiệm các khoản mục chi phí chi dùng cho sản xuất.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1866 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 22-07-2012 03:31:10 PM
Mã Tài liệu
KT146
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng

PHẦN I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

I - Chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, yêu cầu của công tác quản lý, nhiệm vụ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.

1. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp:

Xây dựng cơ bản (XDCB) là ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Nó tạo nên cơ sở vật chất cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế và quốc phòng của đất nước. Hơn thế nữa, đầu tư XDCB gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ hiện đại do đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật đối với các ngành sản xuất vật chất. Nó có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân nói chung và quỹ tích luỹ nói riêng với vốn đầu tư, tài trợ của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực XDCB.
So với các ngành sản xuất khác, XDCB có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của ngành.
Đặc điểm của sản phẩm xây lắp là có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian sử dụng lâu dài, có giá trị lớn đòi hỏi các nhà xây dựng phải dự đoán trước xu hướng tiến bộ xã hội để tránh bị lạc hậu.  Phong cách kiến trúc và kiểu dáng một sản phẩm cần phải phù hợp với văn hoá dân tộc. Trên thực tế, đã có không ít các công trình xây dựng trở thành biểu tượng của một quốc gia như chùa Một cột ở Hà nội,  tháp Ephen ở Pari... và do đó chất lượng của các công trình xây dựng cũng phải được đặc biệt chú ý. Nó không chỉ ảnh hưởng tới tuổi thọ của công trình và còn ảnh hưởng tới sự an toàn cho người sử dụng.
Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp phát huy tác dụng về mặt kinh tế, chính trị, kế toán, nghệ thuật... Nó rất đa dạng nhưng lại mang tính độc lập, mỗi một công trình được xây dựng theo một thiết kế, kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại một địa điểm nhất định, nơi sản xuất ra sản phẩm cũng đồng thời là nơi sau này khi sản phẩm hoàn thành được đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Những đặc điểm này có tác động lớn tới giá trị sản xuất ngành xây dựng.
            Quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao và đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc quy mô và tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thi công lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc chủ yếu diễn ra ngoài trời chịu tác dộng rất lớn của các nhân tố môi trường xấu như mưa, nắng, lũ, lụt... đòi hỏi các nhà xây dựng phải giám sát chặt chẽ những biến động này để hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng xấu của nó.
Sản phẩm xây dựng là sản phẩm đơn chiếc và được tiêu thụ theo cách riêng. Các sản phẩm được coi như tiêu thụ trước khi được xây dựng theo giá trị dự toán hay giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu) do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ bởi vì sản phẩm xây lắp là hàng hoá đặc biệt.
 

            2. Chi phí sản xuất và các loại chi phí sản xuất trong  KD xây lắp.

            a). Khái niệm
            Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động đồng thời cũng chính là quá trình tiêu hao của bản thân các yếu tố trên. Như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá nhà sản xuất phải bỏ ra các chi phí về thù lao lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.            Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động vật hoá và hao phí lao động sống mà doanh nghiệp xây lắp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp. Thực chất chi phí là quá trình chuyển dịch vốn, chuyển dịch các yếu tố sản xuất tạo ra các công trình, hạng mục công trình nhất định.
            Cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu: Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Tức là nó gắn liền với khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ. Còn chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần của các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng với mục đích gì.
            b). Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
            Trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp, các chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có tính chất kinh tế khác nhau, do đó yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí cũng khác nhau. Việc quản lý chi phí không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp  chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào từng loại chi phí riêng biệt để phục vụ và phân tích toàn bộ chi phí sản xuất hoặc từng yếu tố kinh tế ban đầu của chúng theo từng công trình, hạng mục công trình, theo từng nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Do đó đòi hỏi phải có sự phân loại chi phí sản xuất.
            Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học có ý nghĩa rất lớn đối với công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành công trình xây lắp. Trên cơ sở phân loại chi phí sản xuất, căn cứ vào nội dung phát sinh chi phí, kế toán tiến hành tập hợp chi phí cho các đối tượng có liên quan. Bên cạnh đó việc phân loại còn giúp doanh nghiệp kiểm tra, phân tích chi phí sản xuất trên doanh thu của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm xây lắp.
            Tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác độ xem xét chi phí mà chi phí sản xuất được phân loại theo những cách sau:
            Phân loại chi phí theo dự toán.
            Trong xây dựng cơ bản giá trị dự toán công trình có ý nghĩa trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Để lập dự toán công trình người ta phân loại chi phí sản xuất thành các khoản sau: chi phí xây lắp, chi phí mua sắm, chi phí khác và chi phí dự phòng.
            Cách phân loại chi phí trên không những có ý nghĩa với kế toán mà còn cung cấp cho nhà quản lý những thông tin làm chuẩn mực kiểm tra tiến độ thi công. Và dựa vào đó người ta bóc tách ra những chi phí vật liệu, nhân công, chi phí máy thi công. Do đó chúng ta có cách phân loại thứ hai.
            Phân loại theo khoản mục chi phí.
            Cách phân loại này nhằm tính giá thành sản phẩm và phân tích cơ cấu chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm. Theo cách này chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành ba khoản mục chính: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Nhưng do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản có chi phí về máy thi công lớn và phức tạp nên ba khoản mục trên được thay bằng bốn khoản mục chi phí sau:
            - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là tất cả những chi phí nguyên vật liệu để cấu thành nên thực thể công trình như vật liệu chính (xi măng, thép, gạch, cát, đá, sỏi...), vật liệu phụ (sơn, phụ gia, ốc vít...), vật kết cấu giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc (quạt thông gió, thiết bị vệ sinh...)
            - Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ tiền lương chính, phụ cấp và các khoản có tính chất lương của công nhân trực tiếp tham gia xây lắp công trình (cả công nhân trong và ngoài biên chế). Nó bao gồm tiền lương trả theo thời gian, trả theo sản phẩm, làm thêm giờ, tiền thưởng thường xuyên và vượt năng suất lao động.
            Khoản mục này không bao gồm khoản trích 19% BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất, lương và các khoản trích theo lương của công nhân gián tiếp (Ban chỉ huy công trình).
            - Chi phí sử dụng máy thi công: là các chi phí trực tiếp liên quan tới việc sử dụng máy để hoàn thành sản phẩm xây lắp gồm chi phí khấu hao máy móc thiết bị, tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy thi công, chi phí về nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công.
            - Chi phí sản xuất chung bao gồm:
            + Tiền lương nhân viên quản lý đội; Khoản trích theo lương như BHYT, BHXH, KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định (19%) trên tiền lương phải trả công nhân trực tiếp xây lắp và nhân viên quản lý đội (thuộc biên chế của Doanh nghiệp).
            + Chi phí nguyên vật liệu sử dụng cho việc quản lý sản xuất chung của đội.
+ Chi phí công cụ sản xuất phục vụ thi công và quản lý đội.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ như nhà xưởng, thiết bị dùng cho quản lý đội.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài như điện, nước, điện thoại....
+Chi phí khác bằng tiền liên quan tới hoạt động của đội.
Những chi phí trong các khoản mục chi phí trên đều thuộc phạm vi chi phí được tính trong hợp đồng xây dựng cụ thể.
Phân loại theo yếu tố chi phí:
Phân loại theo yếu tố chi phí giúp chúng ta giữ được tính nguyên vẹn của từng yếu tố cũng như từng khoản chi phí không kể nó được phát sinh từ đâu, có quan hệ như thế nào tới quá trình sản xuất.
            Vì vậy hạch toán chi phí sản xuất có tác dụng lớn đối với công tác kế toán cũng như công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu và những loại chi phí nào, làm cơ sở cho việc lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh kỳ sau, lập kế hoạch tính toán nhu cầu vật tư, vốn lưu động (như tiền mặt).
Theo cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố thì những chi phí có tính chất kinh tế chung được xếp chung vào một yếu tố, không tính đến nơi phát sinh chi phí và dùng vào mục đích gì trong quá trình sản xuất.
Đối với doanh nghiệp xây dựng cơ bản, chi phí sản xuất gồm các yếu tố sau: yếu tố nguyên vật liệu, yếu tố công cụ, dụng cụ, yếu tố nhiên liệu động lực, yếu tố tiền lương và các khoản trích theo lương, yếu tố khấu hao TSCĐ, yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài, yếu tố khác bằng tiền.
Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh
Căn cứ vào việc tham gia của các chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm ba loại: chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường.
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả từng loại hoạt động kinh doanh  đúng đắn cũng như việc lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời
Phân loại theo cách ứng xử của chi phí
Nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu lập kế hoạch kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí của nhà quản trị doanh nghiệp, phân loại theo cách ứng xử nghĩa là khi mức độ hoạt động biến động thì chi phí sẽ biến động như thế nào. Khi mức hoạt động kinh doanh thay đổi, các nhà quản trị doanh nghiệp cần thấy trước chi phí sẽ biến động như thế nào, biến động bao nhiêu và loại nào biến động để tương ứng với biến động của mức hoạt động.
Theo cách phân loại này tổng chi phí của doanh nghiệp bao gồm hai loại chi phí: biến phí và định phí.
Ngoài hai cách phân loại trên người ta còn có một số cách phân loại khác như sau:
- Chi phí sản xuất và ngoài sản xuất
- Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
- Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được
- Chi phí theo thời kỳ và chi phí sản phẩm
Tóm lại, mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng phục vụ cho từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể. Nhưng chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định.
 

3. Giá thành sản phẩm xây lắp và các loại giá thành sản phẩm xây lắp.

a -  Giá thành sản phẩm xây lắp.
Để xây dựng một công trình hay một hạng mục công trình thì doanh nghiệp kinh doanh xây lắp phải đầu tư vào quá trình sản xuất thi công một lượng chi phí nhất định. Những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp chi ra trong một quá trình thi công đó sẽ tham gia cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành của quá trình đó.
            Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất (bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung) tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn qui ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và được chấp nhận thanh toán.
Khác với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, người ta có thể tính toán giá thành cho một loạt sản phẩm được sản xuất ra trong thời kỳ và giá thành đơn vị của sản phẩm, đó là một trong những cơ sở quan trọng để xác định giá bán ở doanh nghiệp kinh doanh xây lắp, giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt. Mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá thành riêng.
Hơn nữa, khi nhận thầu một công trình xây dựng thì rõ ràng là giá bán (giá nhận thầu hoặc giá trúng thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình. Như vậy, giá bán có trước khi xác định được giá thành thực tế của công trình. Do đó, giá thành thực tế của công trình đó chỉ quyết định tới lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được do thi công công trình đó mà thôi.
Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay, để đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh, được sự cho phép của Nhà nước một số doanh nghiệp kinh doanh xây lắp đã linh hoạt, chủ động xây dựng một số công trình (chủ yếu là công trình như nhà ở, văn phòng, cửa hàng...) sau đó bán lại cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng với giá bán hợp lý thì giá thành sản phẩm xây lắp cũng là một nhân tố quan trọng để xác định giá bán.
            Trước đây người ta quan niệm rằng giá thành sản phẩm là toàn bộ giá trị chi phí sản xuất tính theo số lượng và loại sản phẩm đã hoàn thành. Như vậy, giá thành sẽ không phản ánh đúng đắn bản chất của nó và ít nhiều mang tính chất chủ quan bởi vì:
- Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập thuần tuý của xã hội như: BHXH, các khoản trích nộp cho cơ quan cấp trên, thuế vốn, thuế tài nguyên...
- Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành  của từng loại sản phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp. Việc phân bổ này mang tính chủ quan.
b - Phân biệt khái niệm chi phí sản xuất  và giá thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt biểu hiện của quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng chúng lại khác nhau về phạm vi, giới hạn và nội dung.
Chi phí sản xuất chỉ tính những chi phí sản xuất phát sinh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quí, năm) còn giá thành lại liên quan đến chi phí của khối lượng xây lắp dở dang kỳ trước chuyển sang nhưng lại không bao gồm chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ.
- Chi phí sản xuất được tập hợp theo từng thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm xây lắp là chi phí sản xuất được tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành.
Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp lại có những điểm giống nhau: chúng đều là chi phí phản ánh lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình sản xuất. Giá thành sản phẩm xây lắp và chi phí sản xuất của công tác xây lắp chỉ thống nhất về mặt lượng trong trường hợp: khi đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là một công trình, hạng mục công trình được hoàn thành trong kỳ tính giá thành hoặc khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau.
c - Bản chất, chức năng của giá thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm xây lắp luôn được thể hiện ở mặt định tính và định lượng.
Mặt định tính của chi phí đó là các yếu tố chi phí hiện vật hay bằng tiền tiêu hao trong quá trình sản xuất xây dựng công trình, hạng mục công trình.
            Mặt định lượng của chi phí thể hiện mức độ tiêu hao cụ thể của từng loại chi phí tham gia vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm xây lắp để cấu thành nên thực thể công trình hoàn thành, biểu hiện bằng thước đo tổng quát là thước đo giá trị.
            Mục đích sản xuất kinh doanh hay nói cách khác mục đích bỏ chi phí của Doanh nghiệp là tạo nên những giá trị sử dụng nhất định để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp nói chung và các Doanh nghiệp xây lắp nói riêng luôn quan tâm tới hiệu quả chi phí bỏ ra, để với chi phí bỏ ra ít nhất nhưng thu được lợi nhuận tối đa. Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu thoả mãn đáp ứng được nội dung thông tin trên.
            Giá thành sản phẩm luôn luôn chứa hai mặt khác nhau vốn có bên trong của nó là chi phí sản xuất đã chi ra và lượng giá trị sử dụng thu hồi được cấu thành trong khối lượng sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành. Như vậy, bản chất của giá thành sản phẩm là kết quả sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp, công việc lao vụ hoàn thành.
            Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu là: Chức năng thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá.
Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành một khối lượng công tác xây lắp, một công trình, hạng mục công trình phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về do quyết toán công trình, hạng mục công trình và khối lượng công tác xây lắp đó. Việc bù đắp chi phí đầu vào đó chỉ có thể đảm bảo được quá trình tái sản xuất giản đơn. Mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải trang trải, bù đắp được chi phí đầu vào đồng thời có lợi nhuận. Trong điều kiện hiện nay, giá bán sản phẩm xây lắp là giá nhận thầu. Do đó giá nhận thầu xây lắp biểu hiện giá trị công trình, hạng mục công trình... phải được dựa trên cơ sở giá thành dự toán. Thông qua giá bán sản phẩm xây lắp mà đánh giá mức độ bù đắp chi phí  và hiệu quả của chi phí.
d - Các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm, xác định giá thành của sản phẩm là việc làm cần thiết và cũng có ý nghĩa thực tiễn cao. Tuy nhiên yêu cầu của quản lý tại những thời điểm và phạm vi khác nhau sẽ khác nhau. Do vậy, việc phân loại giá thành sẽ là cơ sở để các nhà quản trị doanh nghiệp xác định giá thành sản phẩm. 
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu KT146 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)