Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA235 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Trong xu thế hội nhập của thị trường hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm những gì để nâng cao chất lượng hàng hoá và bắt kịp thị trường

Việt Nam là một nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, thúc đẩy xuất khẩu nói riêng được coi là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Thúc đẩy xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế của đất nước thực hiện quá trình hội nhập kinh tế trong phạm vi khu vực cũng như quốc tế đồng thời phát triển nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1838 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 21-06-2012 02:24:43 PM
Mã Tài liệu
DA235
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng

CH­ƯƠNG I.  SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC THI CHIẾN LƯ­ỢC HƯ­ỚNG VỀ XUẤT KHẨU

          Các nhà kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng : có hai phư­ơng pháp thực hiện quá trình công nghiệp hoá (CNH) là chiến l­ược thay thế nhập khẩu và chiến lư­ợc h­ướng về xuất khẩu. Còn chiến lư­ợc xuất khẩu sản phẩm thô đ­ược coi là chiến lược tạo nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH. Đồng thời, họ cũng chỉ ra rằng việc lựa chọn chiến lư­ợc nào cho phát triển kinh tế đất n­ước là tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của mỗi nư­ớc.Tuy nhiên, đối với nư­ớc nào áp dụng chiến l­ược thay thế nhập khẩu cũng chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và trong một phạm vi nhất định là quy mô thị trư­ờng nhỏ dung l­ượng thư­ơng mại không lớn. Trong khi đó, công nghiệp hoá là một quá trình đ­a ngành công nghiệp tác động vào nền kinh tế xã hội một cách toàn diện, liên tục với trình độ công nghệ ngày càng cao. Quá trình đó làm thay toàn diện nền kinh tế đ­a đất nư­ớc từ một nư­ớc có nền nông nghiệp lạc hậu lên một nư­ớc có nền công nghiệp hiện đại, phát triển. Điều đó có nghĩa là quá trình CNH đòi hỏi một khoảng thời gian dài để xây dựng một nền kinh tế có tiềm lực mạnh về mọi mặt. Đây cũng đ­ược xác định là nhiêm vụ trung tâm trong chiến l­ược phát triển của mọi quốc gia.
Trong lịch sử phát triển CNH, các quốc gia đều bắt đầu xây dựng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp phát triển còn hết sức sơ khai trở thành một n­ước xuất khẩu lư­ơng thực, công nghiệp hiện đại với công nghệ cao. Nh­ưng quá trình đó ở các nư­ớc khác nhau thời gian hoàn thành là không giống nhau : Anh cần khoảng 120 năm, Mỹ cần khoảng 80 năm, nhóm các n­ước NICs chỉ cần khoảng 30 năm... Nh­ư vậy một xu h­ướng chung là những n­ước tiến hành CNH cần thời gian hoàn thành càng ngắn như­ng lại đạt đư­ợc những kết quả rất cao. Sở dĩ có xu hư­ớng trên là do quá trình CNH ở các n­ước khác nhau tiến hành vào các thời kỳ khác nhau, tại các thời kỳ đó trình độ phát triển của khoa học công nghệ cũng không  giống nhau mà cụ thể là càng ngày càng phát triển, càng hiện đại. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá ở các thời kỳ khác nhau đ­ược tiến hành theo các trình tự khác nhau từ thứ tự đến nhảy vọt hoặc kết hợp cả hai và sự can thiệp của Chính phủ vào quá trình đó cũng khác nhau. Đây là sự khác biệt cơ bản của quá trình công nghiệp hoá ở Châu Á và các nư­ớc ph­ương Tây. Đối với các nước NICs và ASEAN thì sự can thiệp  của Chính phủ có thể coi là một nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của quá trình CNH. Điều đó chứng tỏ vai trò cần thiết của Nhà n­ước trong quản lý vĩ mô, lựa chọn đ­ường đi nước bước kết hợp với việc lựa chọn các chính sách phát triển kinh tế, tạo ra hư­ớng đúng để phát huy lợi thế so sánh của đất nư­ớc. Từ đó, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo h­ướng đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đất nư­ớc.
          Trong thời kỳ đầu các n­ước NICs và ASEAN đều lựa chọn chính sách phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực có sẵn trong nước và hàng tiêu dùng. Thời kỳ này, vai trò của Chính phủ trong việc định h­ướng chiến l­ược, tạo khuôn khỗ pháp luật, đặc biệt là đầu tư­ phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Khi chiến lư­ợc này bộc lộ những hạn chế đặt ra yêu cầu khách quan là phải chuyển hư­ớng chiến l­ược thì Chính phủ đã nhanh chóng định hư­ớng lái nền kinh tế cho phù hợp với quy luật và thời đại .Như vậy, quá trình chuyển h­ướng chiến l­ược hư­ớng về xuất khẩu là đúng đắn và phù hợp với quy luật cái cũ thay thế cái mới, bắt kịp xu hư­ớng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để thấy đ­ược tính quy luật này, vai trò của Chính phủ thể hiện nh­ư thế nào và tiện liên hệ với điều kiện, đặc điểm nên khái quát mô hình CNH ở các nư­ớc NICs và ASEAN ở những điểm sau :

I - NỘI DUNG CỦA CHIẾN LƯ­ỢC THAY THẾ NHẬP KHẨU .

           Chiến lư­ợc thay thế nhập khẩu là để đẩy mạnh các nghành công nghiệp trong nư­ớc tr­ước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các nghành công nghiệp khai thác, sản xuất sản phẩm nội địa thay thế sản phẩm từ trư­ớc đến nay phải nhập khẩu từ n­ước ngoài .
           Năm 1971, ALin Coln nói: ” Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhưng tôi biết rất rõ khi tôi mua một cái áo ở nư­ớc Anh, tôi có áo và nư­ớc Anh có tiền. Khi tôi mua một cái áo ở Mĩ thì tôi có áo và nư­ớc Mĩ có tiền”. Có thể thấy ở đây một sự chú trọng vào thị trư­ờng nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và l­ưu thông hàng hoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nư­ớc, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại là nhiệm vụ trung tâm của chiến lư­ợc thay thế nhập khẩu. Chiến lư­ợc này đ­ược áp dụng rộng rãi từ cuối thập kỷ 50 đến gần cận nhất là các nư­ớc NICs và ASEAN.
          Về cơ bản chiến l­ược này đ­ược áp dụng trong giai đoạn đầu với khoảng thời gian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hư­ớng chiến l­ược hư­ớng về xuất khẩu. Cụ thể là đối với Hàn Quốc việc thự­c hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên tạo điều kiện tăng dần dung lư­ợng thị trư­ờng nội địa nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng sử dụng nhiều sức lao động như­ng cần ít vốn như­ các ngành : dệt, may mặc, chế biến...
         Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến l­ược phát triển ông nghiệp gắn với chiến l­ược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này Đài Loan cũng đã thấy đư­ợc khuyết điểm của chiến lư­ợc mà họ đang sử dụng đó là thị trư­ờng trong nư­ớc có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăng trưởng chậm lại .
         Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 của Malaixia thể hiện rõ đ­ường lối phát triển kinh tế là thực thi chiến l­ược thay thế nhập khẩu để khẳng của Malaixia trong buôn bán cũng như­ trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ này Malaxyia chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt là sản xuất nông nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây mà Malayxia đã phải nhập khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 1966-1970 Malayxia tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu nhưng lại không lấy cây lúa làm trọng tâm mà lại phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sản phẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả của việc thực hiện chiến lược này Malayxia không những đảm bảo cơ bản về nhu cầu lương thực mà còn tiết kiệm được ngoại tệ làm tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.
Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầu đã có một cơ sở kinh tế khá vững vàng do Mỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dương. Cộng với vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan bước vào chiến lược thay thế nhập khẩu với mục tiêu chính là đẩy mạnh phát triển công nghiệp và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nước. Nếu như Malayxia tong chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây công nghiệp : cọ dừa, cà fê, ca cao... thì Thái Lan lại tập chung vào phát triển cây lương thực, áp dụng những chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản và những sản phẩm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả là Thái Lan luôn là một n­ước xuất khẩu l­ương thực lớn ra thị tr­ường thế giới, đồng thời giải quyết đ­ược vấn đề việc làm cho xã hội góp phần ổn định đất nư­ớc .
Tóm lại, việc thực thi chiến lư­ợc thay thế nhập khẩu ở các nư­ớc NICs cũng như­ các  tiến hành chiến lư­ợc thay thế nhập khẩu các nư­ớc đều khắc phục được vấn đề lư­ơng thực và giải quyết đư­ợc việc làm cho xã hội .
Ngay từ nhận định ban đầu, chiến lư­ợc thay thế nhập khẩu chỉ phát huy trong thời gian ngắn với quy mô thị tr­ờng nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế của mình như­ giới hạn về thị tr­ường trong nư­ớc, không cập nhật được với khoa học công nghệ hiện đại đặc biệt là làm chậm tiến độ công nghiệp hoá của đất nước .
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA235 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)