Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu T098 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

. Nền kinh tế tri thức xét từ góc độ quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh tế

Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính.. đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức. Rất nhiều nước trên thế giới nhất là các nước TBCN trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế tri thức. Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới. Mặt khác chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước chính vì thế Việt Nam phải đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước ta bắt kịp và phát triển cùng thế giới.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2431 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 08-05-2012 02:29:07 PM
Mã Tài liệu
T098
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
 I. LÝ LUẬN
1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tiến hành sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Cách thức này một mặt biểu hiện trong việc sử dụng công cụ lao động nhất định (sản xuất bằng cái gì). Mặt khác biểu hiện trong việc tổ chức hoạt động sản xuất với những quan hệ sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất do hai mặt kết hợp thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức của phương thức sản xuất
1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là kết quả của năng lực thực tiễn của con người lực lượng sản xuất là kết quả cái đã đạt được bởi con người là sản phẩm của hoạt động đã qua của con người, chứ không phải là những cái mà tự nhiên cho sẵn.
Lực lượng sản xuất được gom góp, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất đã có để tạo ra lực lượng sản xuất mới. Trong mỗi giai đoạn phát triển  khác nhau trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở công cụ lao động. Đến lượt nó, trình độ của công cụ biểu hiện ở phân công lao động ở năng suất lao động. Năng suất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng có các yếu tố hợp thành
Người lao động là yếu tố đầu tiên chủ yếu của mọi quá trình sản xuất bao gồm các nhân tố, nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người. Nhu cầu thúc đẩy hoạt động, sức lao động của người lao động là những sức thần kinh, sức cơ bắp mà con người vận dụng để sử dụng, điều khiển công cụ lao động kinh nghiệm và kỹ năng lao động; là sự hiểu biết về đối tượng tính năng tác dụng của công cụ lao động , môi trường, sự thành thạo ít hay nhiều trong việc sử dụng công cụ khả năng cải tiến công cụ. Toàn bộ những nhân tố ấy kết hợp trong người lao động làm thành yếu tố người lao động.
Tư liệu sản xuất bao gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động và những phương tiện, vật liệu khác dùng để tăng cường, hỗ trợ cho tác động công cụ lao động lên đối tượng. Tư liệu lao động là vật hay hệ thống những vật được con người đặt giữa mình với đối tượng lao động để truyền những tác động của con người lên đối tượng nhằm biến đổi chúng thành những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, tư liệu lao động được coi là cánh tay thứ 2 của con người. Nó kéo dài và tăng cường sức mạnh thế giới quan con người… Tư liệu lao động do con người sáng tạo ra, trong đó công cụ sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến đổi tự nhiên.
Đối tượng lao động là toàn bộ những khách thể tự nhiên hoặc những vật liệu tự nhiên đã được con người làm biến đổi nhưng chưa thành sản phẩm. Những khách thể và vật liệu này có thể biến thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu con người và sự tác động của con người. Đối tượng lao động mang lại cho con người tư liệu sinh hoạt.
C. Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào"
Ngày nay khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tức là trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất. Khác với trước đây việc ứng dụng và sáng tạo những thành tựu khoa học kỹ thuật ở cách xa sản xuất
Những yếu tố nói trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có ở trong sự kết hợp đó chúng mới là lực lượng sản xuất. Còn trong sự tách rời chúng chỉ là lực lượng sản xuất ở dạng tiềm năng. Trong những yếu tố của lực lượng sản xuất, thì con người lao động giữ vai trò quyết định. Vì con người không những tạo ra lực lượng sản xuất mà còn sử dụng nó lực lượng sản xuất chỉ là sự biểu hiện những năng lực của bản thân con người.
 
1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ của con người với nhau trong quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu khách quan được hình thành trong quá trình sản xuất của cá nhân với nhau.
Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất; quan hệ giữa người - người trong việc tổ chức và phân công lao động xã hội; quan hệ giữa người và người trong việc phân phối sản phẩm xã hội.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tùy tiện của nội lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Để tiến hành sản xuất, con người chẳng phải quan hệ với tự nhiên mà  mà còn phải quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng mang bản chất xã hội C.Mác viết: "Người ta chỉ sản xuất bằng cách hợp tác với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải để lại mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất.
Ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với những mặt khác trong hệ thống sản xuất, xã hội con người sở hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình tổ chức phân công lao động phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình, con người không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên.
Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu tư nhân là hình thức mà trong đó một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu đại bộ phận những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như hình thức sở hữu này lợi ích cá nhân tri phối quá trình sản xuất. Sở hữu xã hội là hình thức sở hữu của cá nhân liên kết thành các tập thể sở hữu. Hoặc tư liệu xã hội cộng sản nguyên thủy các công xã thời cổ, sở hữu XHCN. Trong sở hữu xã hội, lợi ích tập thể của xã hội chi phối nền sản xuất xã hội.
2. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất
Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời nhau của phát triển sản xuất. Chúng tác động lẫn nhau một cách biện chứng và quy định vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự hình thành và phát triển của những cơ cấu sản xuất . Do đó mối liên hệ này được gọi là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Bản chất của quy luật này là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
2.1. Tính chất  của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất là tổ chức của tư liệu lao động và của lao động, đó là tính chất cá thể hay tính chất xã hội của chúng. Còn trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật kinh nghiệm và kỹ năng biểu hiện thông qua quy mô cơ cấu sản xuất, phân công lao động. Tổ chức của l sản xuất liên hệ chặt chẽ với trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất càng cao thì phân công lao động xã hội càng sâu sắc, do đó tính chất xã hội của nó càng cao.
2.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức trong phát triển sản xuất. Nội dung quyết định hình thức.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động, cách mạng trong phương thức sản xuất vì trong quá trình lao động con người không ngừng cải tiến công cụ do kinh nghiệm luôn được tích lũy do nhu cầu sản xuất không ngừng tăng lên. Trong khi đó quan hệ sản xuất có khuynh hướng bảo thủ, ổn định. Do đó những thay đổi của phát triển sản xuất  đều bắt nguồn sâu xa trước hết là sự tự biến đổi của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự phân công lao động xã hội do đó quyết định quan hệ giữa các tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất thông qua quyết định quá trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm.
Khi lực lượng sản xuất phát triển mâu thuẫn với quan hệ cũ đang kìm hãm nó,thì nó đòi hỏi phải được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để cho sản xuất phát triển. Như vậy sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng quan hệ sản xuất khác do lực lượng quy định chứ không phải do quan hệ sản xuất.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu T098 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)