Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA385 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng nó ở Việt Nam

Sau 15 năm đổi mới, nhất là trong 5 năm gần đây nền kinh tế xã hội nước ta đã đạt được những bước tiến đáng kể. Năm 2020 Việt Nam sẽ là một thị trường rộng lớn có số dân khoảng 100 triệu người đứng hàng thứ hai trong số các nước có dân số lớn ở Đông Nam á, thứ 7 so với các nước Châu á Thái Bình Dương và đứng hàng thứ 10 trên thế giới.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
4618 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 14-07-2012 04:23:43 PM
Mã Tài liệu
DA385
Tổng điểm Đánh giá
3 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
PHẦN THỨ  HAI
CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I          : CƠ SỞ LÝ LUẬN
 
A. Hoàn cảnh ra đời của chính sách kinh tế mới của Lênin.
Mùa xuân 1921 đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử của chủ nghĩa xã hội thế giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và nhà nước Xô Viết trẻ tuổi ban hành chính sách kinh tế mới. Nep  từ gọi tắt  “ chính sách kinh tế mới” được Lênin dùng lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1992, mãi mãi vang nên trong tâm trí biết bao thế hệ những người cộng sản các nước khi họ bắt tay vào giải quyết những vấn đề phức tạp của chặng đầu thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát khác nhau hoặc khi họ gặp khó khăn, gặp sai lầm khuyết đIểm trong lãnh đạo kinh tế-xã hội.
Cuối năm 1920, phần lớn đất nước Liên Xô được giải phóng khỏi bon can thiệp và bạch vệ. Tiêp đó, sự kết thúc nội chiến đã tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nền kinh xã hội chủ nghĩa (XHCN), kế hoạch mà Lênin nêu từ mùa xuân năm 1918. Tuy nhiên tinh hình kinh tế, chính trị của đất nước vào cuối năm 1920 đầu năm 1921 đã khác nhiều so với đầu năm 1918. công lao lịch sử vĩ đại của Lênin và Đảng do người lãnh đạo là sớm nhận thấy những đặc đIểm kinh tế chính trị khác trước, đã phát hiện những mâu thuẫn và đưa ra sự phân tích khoa học về các mâu thuẫn ấy.
1.sự nỗi thời của chủ nghĩa cộng sản thời chiến.
* Không bao lâu sau Cách mạng tháng Mười, việc thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) của Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Trong thời kì này Lênin đã áp dụng “chính sách công sản thời chiến “
Mục đích trước tiên của chính sách này là tập chung toàn bộ lực lượng của xã hội và của nhà nước vào việc đảm bảo chiến thắng thù trong giặc ngoài. Nhưng đồng thời chính sách này còn nhằm mục đích khác là thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và gốc rễ của nó ở trong nước để có thể nhanh chóng “vượt qua”  không chỉ là thời kì quá độ giữa CNTB và CNXH, mà nó còn vượt qua cả chính CNXH tiến thẳng lên CNCS.
Nội dung của chính sách cộng sản thời chiến là: nhanh chóng thưc hiện “Quốc doanh hoá” nền kinh tế bằng cách quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp lớn, sau đó cả xí nghiệp vừa và nhỏ; Nhanh chóng xoá bỏ thương nghiệp tư nhân lớn và nhỏ như cấm buôn bán ở chợ trong môt số thành phố, đóng cửa các trung tâm buôn bán lớn; Nhà nước quản lý hầu hết nông sản, trưng thu và mua nông sản, chuyển mạnh sang phương thức Nhà nước quản lý trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Phương pháp lãnh đạo cứng rắn, chủ yếu là những phương pháp chỉ huy mệnh lệnh và do hoàn cảnh chiến tranh bắt buộc đòi hỏi tác chiến nhanh và kiên quyết. Quan niệm của chính sách “Chủ nghĩa cộng sản thời chiến” về sự phát triển của cách mạng và những mục tiểu của nó: “Được cao trào nhiệt tình lôi cuốn, chúng ta, những người đã từng thức tỉnh nhiệt tình của nhân dân, trước hết về mặt chính trị rồi sau về mặt quân sự,- Lênin đã viết-chúng ta đã tính đến là có thể dựa vào nhiệt tình đó mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cũng to tát (như những nhiệm vụ chính trị chung, như những nhiệm vụ quân sự)”, đó chính là chuyển ngay sang sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa.
Để chuyển như vậy cần có phải những biện pháp sau: Tuỳ theo từng khả năng mà tập trung vào tay nhà nước mọi hình thức hoạt động kinh tế; tập trung hóa việc quản lý kinh tế và chính trị; tước đoạt giai cấp tư sản, để cả tước đoạt ở nông thôn, cưỡng bức phân bố các nguồn lao động kể cả huy động cán bộ vào các ngành then chốt(quân sự hoá lao động); lao động nghĩa vụ chung và các hình thức lao động không trả tiền khác; khuynh hướng nhà nước trưng thu của những người sản xuất toàn bộ sản phẩm thặng du, xu hướng san bằng đIều kiện vật chất và tương tự như thế, chuyển sang chế độ phân phối bằng hiện vật thông qua nhà nước theo nguyên tắc bình quân; áp dụng đến mức độ tối thiểu vai trò các kích thích bằng kinh tế.
Đó chính là “mô hình kinh tế - xã hội” theo quan niệm chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, không cần qua các giai đoạn trung gian, không cần qua hình thức quá độ.
Chính sách cộng sản thời chiến đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của Nhà nước Xô Viết trong cuộc chiến tranh không khoan nhượng chống CNTB.
Nhờ nó mà quân sự đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được Nhà nước Xô Viết. Xác định tính xác thực của chính sách này bằng logic đấu tranh vì một chế độ mới, sau khi thay đổi đường lối, Lênin đã viết: “chúng ta không thể không hành động khác được. Bất cứ một hành động nào khác, về phía chúng ta đều có nghĩa là hoàn toàn đầu hàng ”. Người cũng nhấn mạnh rằng “chế độ công sản thời chiến” lại là thành tích của chúng ta.
* Tuy nhiên khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp, nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển sản xuất. Đặc biệt cùng với hậu quả nặng nề của 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế xã hội trở nên nóng bỏng:
- Về công nghiệp: Ước tính 1/4 tài sản quốc gia mất đi, trong đó nền công nghiệp bị tổn thất lớn nhất. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 so với năm 1917 giảm đi 4 lần, số người làm việc giảm gần 1/2. Do đó, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu như tất cả các ngành đều sa sút. Nguyên vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913, sản xuất đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống 44,1%. Do đó tương quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp(từ 24,2% đến 52,3%) .
- Về nông nghiệp: Diện tích gieo trồng sản lượng ngũ cốc, sản lượng chăn nuôi đều giảm, bình quân ngũ cốc đầu người là 246 kg còn trước chiến tranh là 405 kg.
- Về giao thông vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị phá, cùng với 4000 chiến cầu và các ga xe, kho tàng. So với trước chiến tranh, khối lượng vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20% (không tính đến khối lượng vận chuyển của quốc phòng và nhu cầu của bản thân đường xe lửa là 12%).
- Về tàI chính tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân sách 31 tỷ rúp, năm 1921 con số bội chi nên tới 21,937 tỷ rúp. Mức dự trữ vàng của ngân hàng thế giới giảm sút nghiêm trọng. Khối lượng tiền tệ tăng nhanh trong khi khối lượng hàng hoá giảm đã đưa đến sự tăng vọt của giá cả. Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng 21 triệu lần so với năm 1913. Đồng thời xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần nên.
Do sản xuất lưu thông sa sút nên đời sống nhân dân lao động cang thêm khó khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lương thực tế của công nhân công nghiệp trước chiến tranh là 22 tỷ rúp đã giảm xuống còn 8,3 tỷ rúp năm 1920. Do thiếu ăn thường xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu đIều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy phải đóng cửa, số người không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra.
Trong thời kì nội chiến, “chính sách công sản thời chiến” gây thiệt hại cho lợi ích nông dân, tuy nhiên sự thiếu thốn, khó khăn trong đời sống của nông dân và công nhân trong thời kì ấy không gây ra sự mệt mỏi về tinh thần, vì quần chúng lao động sẵn sàng lao động quên mình để góp phần vào việc tiêu diệt bọn phản cách mạng, thiết lập và dữ vững chính quyền nhân dân. Nhưng sau chiến tranh, khi những hi vọng trông chờ vào việc cảI thiện đời sống vật chất và tinh thần không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là đIều kiện để bon phản cách mạng lợi dụng lừa rối quần chúng tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô Viết non trẻ.
* Cuộc khủng hoảng xuất hiện ngay sau khi ngừng tiếng súng. Nguy cơ đó lại tiếp tục tăng lên, đòi hỏi những người công sản phảI xem xét, nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về lý luận và thực tiễn thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH.
Thứ nhất, mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời nước Nga. Khi nói về mô hình “cộng sản thời chiến”, Lênin cũng chỉ ra sự lác hậu, nghèo đói của nước Nga lúc bấy giờ và sự đổ lát đã thúc đẩy phải tìm kiếm con đường khắc phục những khó khăn vô cùng to lớn về kinh tế qua việc thực hiện lao động ngang nhau. Thêm vào đó, trong lý luận CNXH khoa học, Lênin chưa thảo ra lý luân chính trị và kinh tế - xã hội của thời kì quá độ và thời kì xây dựng CNXH. Cuối cùng, tình trạng rối loạn trong đội ngũ kẻ thù giai cấp, sự rút lui không có trật tự, dường như là sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ tư sản khiến mọi người tin rằng việc tổ chức và phân phối phù hợp với dự kiến về CNCS của Mác và Aghen, không có kích thích kinh tế, đồng thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ là hoàn toàn hiện thực. Vì vậy việc mất giá đồng tiền xay ta lúc đó, cũng như việc thay buốn bán bằng phân phối sản phẩm tập trung, trong đó có phân phối bằng tem phiếu và trưng thu lương thực, được coi là những quá trình tự nhiên, là bằng chứng về sự phát triển rất đáng mong mỏi và hơn nữa là sự phát triển nhanh chóng đi lên CNCS.
Còn về mặt chính trị của mô hình “cộng sản thời chiến” thì thực chất là việc dẫn tới chỗ nhà nước hoá toàn bộ. Nhưng lại nảy sinh vấn đề kết hợp như thế nào việc đó với viến cảnh ro Mác vạch ra về sự tiêu vong của nhà nước. Để trả lời câu hỏi này, Lênin nói về tính chất rất tạm thời của nhà nước, về sự tồn tại của nhà nước cho đến khi các giai cấp mất đI, vấn đề này hầu như không còn xảy ra nữa. Chiến tranh còn đang tiếp tục, việc nhà nước hóa là tất yếu và tiết thực, cũng như sự độc quyền của nhà nước về sản xuất và phân phối kèm theo nó là những mặt tiêu cực của sự độc quyền mà Lênin đã cố gắng khắc phục sau này.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA385 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)