Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty TNHH Volex Việt Nam trong tiến trình hội nhập Kinh tế Quốc tế
Đăng ngày 20-07-2012 Lúc 08:51'- 1920 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
 

.1.        Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu

.1.1.       Khái niệm về xuất khẩu.
Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới các quốc gia. Thương mại quốc tế khác với nội thương - hoạt động trao đổi diễn ra giữa các vùng, các địa phương, hoặc các thành phố trong phạm vi một nước. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động thương mại quốc tế trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hoá sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình đến hàng hoá vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Nó diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian, có thể diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm, có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài và đây được coi là chiến lược quan trọng của công ty.
Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu như là :
+ Sử dụng khả năng vượt trội hay những lợi thế của công ty để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá và thu lợi nhuận tối đa.
+ Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
+ Giảm được rủi ro do có thể tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến động của nó. Những điều này luôn nằm trong tư duy của mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trong thương mại quốc tế.
.1.2.       Một số lý thuyết về thương mại quốc tế.
          Các lý thuyết về thương mại quốc tế nhằm giải thích cơ sở hình thành nên hoạt động thương mại giữa các quốc gia, xác định cơ cấu thương mại và lợi ích mà mỗi quốc gia thu được khi tham gia vào thương mại quốc tế. Các quốc gia tham gia vào thương mại với những lợi thế của mình với mục đích thu được thật nhiều những lợi ích từ thương mại.
 
 
1.1.2.1. Quan điểm của trường phái trọng thương :
          Quan điểm của trường phái trọng thương về thương mại cho rằng các quốc gia cần tích luỹ nguồn của cải tài chính, thường là bằng vàng, bằng cách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Quan điểm này cho rằng lượng của cải của một quốc gia là thước đo phúc lợi duy nhất của quốc gia đó. Các quan điểm trọng thương được biểu hiện như sau :
          Các quốc gia có thể tăng lượng của cải của mình bằng cách duy trì mức thặng dư thương mại - tức khi giá trị xuất khẩu của một quốc gia lớn hơn giá trị nhập khẩu của quốc gia đó. Thặng dư thương mại có nghĩa là quốc gia thu được nhiều vàng hơn từ xuất khẩu so với lượng vàng phải thanh toán cho nhập khẩu. Thâm hụt thương mại là tình huống ngược lại và xảy ra khi giá trị nhập khẩu của một quốc gia lớn hơn giá trị xuất khẩu của quốc gia đó. Theo quan điểm trọng thương thì quốc gia cần phải tránh tình trạng thâm hụt thương mại bằng mọi giá.
          Các Chính phủ phải tích cực can thiệp vào thương mại quốc tế để duy trì mức thặng dư thương mại. Quá trình tích luỹ của cải phụ thuộc vào việc gia tăng mức thặng dư thương mại, chứ không nhất thiết phải dựa vào việc mở rộng quy mô hoặc gia tăng giá trị thương mại. Chính phủ có thể đạt được điều này bằng cách cấm nhập khẩu một số mặt hàng, hoặc áp đặt các công cụ hạn chế nhập khẩu như thuế quan và hạn ngạch. Đồng thời, các ngành công nghiệp trong nước được trợ cấp để có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chính phủ cũng thường áp dụng biện pháp cấm chuyển vàng bạc tới các nước khác.
          Các quốc gia theo quan điểm của trường phái trọng thương tìm cách biến các vùng lãnh thổ kém phát triển (các thuộc địa) thành nơi cung cấp nguồn nguyên vật liệu thô rẻ tiền, và đồng thời thành nơi tiêu thụ các thành phẩm với giá cao.
          Mặc dầu chính sách trọng thương mang lại nhiều lợi ích cho những quốc gia theo đuổi nó, nhưng chính sách này có rất nhiều mặt hạn chế. Hạn chế chủ yếu của chủ nghĩa trọng thương là ở chỗ nếu tất cả các quốc gia đều tìm cách ngăn cản nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường của mình và đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước khác thì thương mại quốc tế sẽ bị thu hẹp một cách ghê gớm. Ngoài ra, việc nhập khẩu từ các thuộc địa với giá rẻ trong khi xuất khẩu sang các nước đó với giá cao đã ngăn cản sự phát triển kinh tế ở những nước thuộc địa, từ đó làm giảm sức tiêu thụ hàng hoá ở những nước này. Các quốc gia này còn cho rằng của cải của thế giới là có hạn cho nên sự giàu có của một quốc gia chỉ có thể diễn ra khi ít nhất có một quốc gia khác nghèo đi. Thương mại quốc tế vì vậy được coi là một trò chơi có tổng lợi ích bằng 0. Nhưng thực tế cho thấy rằng các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều có thể thu được lợi ích cho mình, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ dựa vào lượng vàng được tích trữ ở quốc gia đó mà còn dựa trên nhiều nhân tố kinh tế xã hội khác như là văn hoá xã hội, đời sống nhân dân ...     
          1.1.2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith :
          Khác với trường phái trọng thương, Adam Smith cho rằng : “sự giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”. Khả năng của một quốc gia có thể sản xuất một mặt hàng với hiệu quả cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác được gọi là lợi thế tuyệt đối của quốc gia đó. Nói cách khác, với nguồn lực có quy mô như nhau (hoặc nhỏ hơn), một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nào đó có thể làm ra lượng sản phẩm nhiều hơn so với các quốc gia khác.
          Ông lập luận rằng một nước không nhất thiết phải sản xuất tất cả các mặt hàng tiêu dùng trong nước, mà ngược lại mỗi nước có thể tập trung sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và sau đó buôn bán với các nước khác để đổi lấy những mặt hàng mà mình không có lợi thế tuyệt đối. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu những hàng hoá mà nước này không sản xuất hoặc sản xuất được nhưng có chi phí cao hơn giá nhập khẩu.
          Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả sản xuất của mình, các sản phẩm cũng có chất lượng tốt hơn bởi vì người lao động sẽ lành nghề hơn do công việc được lặp lại nhiều lần, họ không mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác. Ngoài ra, do làm một công việc lâu dài nên người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm, các sáng kiến và các phương pháp làm việc tốt hơn.
          Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng:   thương mại sẽ giúp các bên cùng giầu có lên nghĩa là cùng thu được lợi ích. Do cả hai nước đều có lợi từ việc trao đổi nên thương mại quốc tế là trò chơi có tổng lợi ích lớn hơn 0. Lý thuyết này cũng phê phán quan điểm cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải sử dụng các chính sách hạn chế thương mại để gia tăng của cải cho quốc gia. Ngược lại, các quốc gia cần mở cửa và trao đổi thương mại để người dân của mình có thể mua được nhiều hàng hoá hơn và với giá rẻ hơn.
          Mặc dầu cho thấy thương mại là có lợi cho các bên tham gia, nhưng lý thuyết lợi thế tuyệt đối không trả lời được câu hỏi : điều gì xảy ra nếu một nước không có được lợi thế tuyệt đối về bất kì mặt hàng nào ? Liệu thương mại có mang lại lợi ích hay không, hay thậm chí thương mại có thể diễn ra được hay không ? Trên thực tế, thương mại quốc tế có thể diễn ra mà không nhất thiết đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có lợi thế tuyệt đối so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Để trả lời những câu hỏi này cần xem xét một khái niệm rộng hơn, cụ thể là khái niệm về lợi thế so sánh như sau : 
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)