Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt nam
Đăng ngày 10-07-2012 Lúc 09:33'- 3157 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
PHẦN I

LÝ LUẬN VỀ NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

 

 

I/ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG

 
1/ Khái niệm
           Khi nghiên cứu về ngân hàng, do có sự xâm nhập mạnh mẽ của các định chế tài chính phi ngân hàng và sự phát triển đa dạng của bản thân ngành ngân hàng nên rất khó để đưa ra một định nghĩa chính xác, ngắn gọn về ngân hàng.
         Ở Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng đã đưa ra một định nghĩa về ngân hàng như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
         Hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận chính: Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng trung gian. Vì sự liên đối mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều tổ chức không phải là ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động cho vay và kinh doanh tiền tệ như các tổ chức tín dụng, công ty Bảo hiểm, công ty Tài chính, các quỹ tiền tệ... được nhiều nước xem như là bộ phận thứ ba của hệ thống ngân hàng .
 
2/ Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
Như phần trên đã nghiên cứu, hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận chính, và mỗi bộ phận này sẽ thực hiện những chức năng riêng có của nó.
Ở tất cả các nước, Ngân hàng Trung Ương là cơ quan duy nhất phát hành giấy bạc để đưa vào lưu hành trong nền kinh tế. Nó có nhiệm vụ là tổ chức in tiền và đưa khối lượng tiền giấy vào trong lưu thông thông qua kênh cần thiết, đồng thời lựa chọn, tiêu huỷ các đồng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu hành và điều chỉnh cơ cấu tiền theo mệnh giá giữa các vùng của đất nước giữa các thời kỳ khác nhau.
 Bên cạnh đó, Ngân hàng Trung Ương còn đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng thực hiện. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng Trung Ương mở tài khoản và quản lý tiền gửi cho hệ thống các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng khác, hay Ngân hàng Trung Ương có thể cho vay đối với các Ngân hàng Thương mại. Mặt khác, Ngân hàng Trung Ương cũng còn là ngân hàng của Nhà nước; hoạt động của Ngân hàng Trung Ương đặt dưới sự kiểm soát và điều hành của cơ quan Nhà nước, đồng thời Ngân hàng Trung Ương cũng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, Ngân hàng Trung Ương còn thay mặt cho Nhà nước trong việc thực hiện một số quan hệ đối với nước ngoài như thực hiện việc ký kết các hiệp định về tín dụng, tiền tệ đối với Ngân hàng Trung Ương các nước hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mà các nước tham gia. Ngân hàng Trung Ương cũng có quan hệ chặt chẽ đối với Kho bạc Nhà nước trong việc thực hiện các khoản chi tiêu cho Chính phủ.
 Còn về các hoạt động của ngân hàng trung gian, trong đó điển hình là Ngân hàng Thương mại thì có thể chia thành ba nhóm hoạt động chính; đó là hoạt động tập trung huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian khác.
Về hoạt động tập trung huy động vốn, ngân hàng có thể tạo lập nguồn vốn thông qua hoạt động mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, hoặc đi vay các ngân hàng khác. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng Thương mại có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như do Nhà nước cấp, do các cổ đông góp vốn hoặc của các bên liên doanh; ngoài ra, vốn chủ sơ hữu còn có thể do ngân hàng mở rộng các hoạt động như làm dịch vụ, đại lý...
Về hoạt động sử dụng vốn, Ngân hàng Thương mại có thể cho vay. Đây  hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại và nó cũng phản ánh đúng tính chất của các Ngân hàng Thương mại là huy động vốn để cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại cũng có thể đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư tài sản cố định ...
Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một số hoạt động trung gian khác như làm trung gian thanh toán cho khách hàng, chuyển tiền cho khách hàng, tư vấn, môi giới chứng khoán...
Chính vì những đặc trưng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại như nêu trên mà những rủi ro trong hoạt động ngân hàng thường gắn liền với các Ngân hàng  Thương mại .
 
II/ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
        
1/ Rủi ro
Rủi ro trong kinh doanh được hiểu là những thiệt hại trong kinh doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Từ đó ta có nhận xét:
- Không được coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi ro trong kinh doanh
- Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý thực có của đơn vị.
- Rủi ro được gây ra bởi nhiều nguyên nhân: khách quan, chủ quan,có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng dù là loại rủi ro nào cũng đều có khả năng phòng ngừa với các biện pháp có thể khác nhau.
 
2/Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi.
Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tạo sự bình đẳng trong hoạt động của các thành phần này và thúc đẩy sự  cạnh tranh lẫn nhau một cách lành mạnh.
Rủi ro tuy là sự bất trắc gây thiệt hại không mong đợi song lại là hiện tượng dồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt động kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên của các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, thích nghi của các doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí, với hoạt động ngân hàng, hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro bởi một lẽ là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhậy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế-xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động ngân hàng, có thể gây nên những xaó trộn bất ngờ và dẫn đến hiệu quả của ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng những rủi ro “tiềm ẩn”, nó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Hoạt động kinh doanh  ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do hàng hoá của nó là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức cuốn hút rất lớn; vì vậy mà rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng rất lớn và đa dạng.
           Do vậy, nhận thức rõ từng loại rủi ro, đề ra những biện pháp ngăn chặn phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp bách thường xuyên liên tục tồn tại song song với hoạt động của ngân hàng.
 
 

III/ NHỮNG RỦI RO ĐẶC THÙ TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG

 
1/Rủi ro tín dụng
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng; nó thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng như mức độ tạo thuận lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức độ rủi ro của nghiệp vụ này cũng chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro của hoạt động ngân hàng.
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay. Nói cách khác, “rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch nào đó, không thực hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro  tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau, chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn...
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người ta thường phải xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ trọng nợ quá hạn, người ta lại chia ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi... Các tỷ trọng này càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.
Khi nghiên cứu về các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, người ta đã đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
 Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân bất khả kháng, thông tin không cân xứng, sự điều khiển sai lệch của cơ chế thị trường. Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân từ phía ngân hàng (mà chủ yếu là từ sự yếu kém của cán bộ ngân hàng, các nhà quản trị điều hành không có năng lực, thiếu kiểm tra giám sát), nguyên nhân từ phía khách hàng...
Ngày nay, các Ngân hàng Thương mại dù đã mở rộng kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng hoạt động cho vay vẫn là nguồn cơ bản tạo nên thu nhập của ngân hàng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển như ở Việt Nam, hoạt động cho vay chiếm tới 90% hoạt động của ngân hàng, và vì thế mà rủi ro tín dụng là vấn đề cần được quan tâm đặc biệt trong hoạt động của các ngân hàng Thương mại ở nước ta hiện nay.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)