Đăng ngày 21-06-2012 Lúc 02:24'- 1839 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC THI CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU
Các nhà kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng : có hai phương pháp thực hiện quá trình công nghiệp hoá (CNH) là chiến lược thay thế nhập khẩu và chiến lược hướng về xuất khẩu. Còn chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô được coi là chiến lược tạo nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH. Đồng thời, họ cũng chỉ ra rằng việc lựa chọn chiến lược nào cho phát triển kinh tế đất nước là tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của mỗi nước.Tuy nhiên, đối với nước nào áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu cũng chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và trong một phạm vi nhất định là quy mô thị trường nhỏ dung lượng thương mại không lớn. Trong khi đó, công nghiệp hoá là một quá trình đa ngành công nghiệp tác động vào nền kinh tế xã hội một cách toàn diện, liên tục với trình độ công nghệ ngày càng cao. Quá trình đó làm thay toàn diện nền kinh tế đa đất nước từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu lên một nước có nền công nghiệp hiện đại, phát triển. Điều đó có nghĩa là quá trình CNH đòi hỏi một khoảng thời gian dài để xây dựng một nền kinh tế có tiềm lực mạnh về mọi mặt. Đây cũng được xác định là nhiêm vụ trung tâm trong chiến lược phát triển của mọi quốc gia.Trong lịch sử phát triển CNH, các quốc gia đều bắt đầu xây dựng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp phát triển còn hết sức sơ khai trở thành một nước xuất khẩu lương thực, công nghiệp hiện đại với công nghệ cao. Nhưng quá trình đó ở các nước khác nhau thời gian hoàn thành là không giống nhau : Anh cần khoảng 120 năm, Mỹ cần khoảng 80 năm, nhóm các nước NICs chỉ cần khoảng 30 năm... Như vậy một xu hướng chung là những nước tiến hành CNH cần thời gian hoàn thành càng ngắn nhưng lại đạt được những kết quả rất cao. Sở dĩ có xu hướng trên là do quá trình CNH ở các nước khác nhau tiến hành vào các thời kỳ khác nhau, tại các thời kỳ đó trình độ phát triển của khoa học công nghệ cũng không giống nhau mà cụ thể là càng ngày càng phát triển, càng hiện đại. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá ở các thời kỳ khác nhau được tiến hành theo các trình tự khác nhau từ thứ tự đến nhảy vọt hoặc kết hợp cả hai và sự can thiệp của Chính phủ vào quá trình đó cũng khác nhau. Đây là sự khác biệt cơ bản của quá trình công nghiệp hoá ở Châu Á và các nước phương Tây. Đối với các nước NICs và ASEAN thì sự can thiệp của Chính phủ có thể coi là một nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của quá trình CNH. Điều đó chứng tỏ vai trò cần thiết của Nhà nước trong quản lý vĩ mô, lựa chọn đường đi nước bước kết hợp với việc lựa chọn các chính sách phát triển kinh tế, tạo ra hướng đúng để phát huy lợi thế so sánh của đất nước. Từ đó, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đất nước.
Trong thời kỳ đầu các nước NICs và ASEAN đều lựa chọn chính sách phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực có sẵn trong nước và hàng tiêu dùng. Thời kỳ này, vai trò của Chính phủ trong việc định hướng chiến lược, tạo khuôn khỗ pháp luật, đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Khi chiến lược này bộc lộ những hạn chế đặt ra yêu cầu khách quan là phải chuyển hướng chiến lược thì Chính phủ đã nhanh chóng định hướng lái nền kinh tế cho phù hợp với quy luật và thời đại .Như vậy, quá trình chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu là đúng đắn và phù hợp với quy luật cái cũ thay thế cái mới, bắt kịp xu hướng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để thấy được tính quy luật này, vai trò của Chính phủ thể hiện như thế nào và tiện liên hệ với điều kiện, đặc điểm nên khái quát mô hình CNH ở các nước NICs và ASEAN ở những điểm sau :
I - NỘI DUNG CỦA CHIẾN LƯỢC THAY THẾ NHẬP KHẨU .
Chiến lược thay thế nhập khẩu là để đẩy mạnh các nghành công nghiệp trong nước trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các nghành công nghiệp khai thác, sản xuất sản phẩm nội địa thay thế sản phẩm từ trước đến nay phải nhập khẩu từ nước ngoài .Năm 1971, ALin Coln nói: ” Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhưng tôi biết rất rõ khi tôi mua một cái áo ở nước Anh, tôi có áo và nước Anh có tiền. Khi tôi mua một cái áo ở Mĩ thì tôi có áo và nước Mĩ có tiền”. Có thể thấy ở đây một sự chú trọng vào thị trường nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và lưu thông hàng hoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược thay thế nhập khẩu. Chiến lược này được áp dụng rộng rãi từ cuối thập kỷ 50 đến gần cận nhất là các nước NICs và ASEAN.
Về cơ bản chiến lược này được áp dụng trong giai đoạn đầu với khoảng thời gian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu. Cụ thể là đối với Hàn Quốc việc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên tạo điều kiện tăng dần dung lượng thị trường nội địa nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng sử dụng nhiều sức lao động nhưng cần ít vốn như các ngành : dệt, may mặc, chế biến...
Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến lược phát triển ông nghiệp gắn với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này Đài Loan cũng đã thấy được khuyết điểm của chiến lược mà họ đang sử dụng đó là thị trường trong nước có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăng trưởng chậm lại .
Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 của Malaixia thể hiện rõ đường lối phát triển kinh tế là thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu để khẳng của Malaixia trong buôn bán cũng như trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ này Malaxyia chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt là sản xuất nông nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây mà Malayxia đã phải nhập khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 1966-1970 Malayxia tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu nhưng lại không lấy cây lúa làm trọng tâm mà lại phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sản phẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả của việc thực hiện chiến lược này Malayxia không những đảm bảo cơ bản về nhu cầu lương thực mà còn tiết kiệm được ngoại tệ làm tiền đề chuyển hướng chiến lược hướng về xuất khẩu.
Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầu đã có một cơ sở kinh tế khá vững vàng do Mỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dương. Cộng với vị trí địa lý thuận lợi, Thái Lan bước vào chiến lược thay thế nhập khẩu với mục tiêu chính là đẩy mạnh phát triển công nghiệp và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nước. Nếu như Malayxia tong chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây công nghiệp : cọ dừa, cà fê, ca cao... thì Thái Lan lại tập chung vào phát triển cây lương thực, áp dụng những chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản và những sản phẩm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả là Thái Lan luôn là một nước xuất khẩu lương thực lớn ra thị trường thế giới, đồng thời giải quyết được vấn đề việc làm cho xã hội góp phần ổn định đất nước .
Tóm lại, việc thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu ở các nước NICs cũng như các tiến hành chiến lược thay thế nhập khẩu các nước đều khắc phục được vấn đề lương thực và giải quyết được việc làm cho xã hội .
Ngay từ nhận định ban đầu, chiến lược thay thế nhập khẩu chỉ phát huy trong thời gian ngắn với quy mô thị trờng nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế của mình như giới hạn về thị trường trong nước, không cập nhật được với khoa học công nghệ hiện đại đặc biệt là làm chậm tiến độ công nghiệp hoá của đất nước .