Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vấn đề hội nhập ở Việt Nam
Đăng ngày 08-05-2012 Lúc 10:55'- 1719 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
NỘI DUNG
 
A. KIẾN THỨC TRIẾT HỌC
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
1. Nội dung
Theo phép siêu hình: Phép siêu hình cho rằng sự vật tồn tại biệt lập, tách rời nhau, giữa chúng không có liên hệ, còn nếu có liên hệ thì chỉ là liên hệ bên ngoài.
Theo phép biện chứng: Phép biện chứng lại cho rằng mọi sự vật đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến là mà nó được thể hiện - các sự vật là điều kiện là tiền đề tồn tại và phát triển của nhau, chúng nương tựa, phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, thường xuyên thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau. Ranh giới giữa các lớp sự vật không phải là tuyệt đối mà bao giờ cũng có những lớp trung gian chuyển tiếp.
Mối liên hệ phổ biến diễn ra không chỉ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự vật, trong những mối liên hệ tạo ra sự vật. Liên hệ bản chất bao giờ cũng có những quyết định đối với sự tồn tại cũng như xu hướng biến đổi sự vật liên hệ bên ngoài hay liên hệ gián tiếp… chỉ có những ảnh hưởng nhất định đối với sự vật.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức hay trong thực tiễn ta phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm này yêu cầu khi nghiên cứu, xem xét sự vật phải xem xét tất cả các mối liên hệ của nó, nhưng không được đặt các mối liên hệ có vai trò ngang nhau, mà cần phải xác định xem đâu là sự liên hệ bản chất tất yếu bên trong sự vật, đâu là những liên hệ gián tiếp bên ngoài… để từ đó có được kết luận chính xác về sự vật.
Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể mọi sự vật trong thế giới vật chất tồn tại, vận động và phát triển bao giờ cũng diễn ra trong những hoàn cảnh cụ thể, trong không gian và thời gian xác định điều này ảnh hưởng tới đặc điểm, tính chất của sự vật. Khi nghiên cứu sự vật phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong không gian và thời gian xác định mà sự vật tồn tại, vận động và phát triển. Đồng thời phải phân tích, vạch ra ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đối với sự tòn tại của sự vật với tính chất cũng như xu hướng vận động và phát triển của sự vật.
B. KINH TẾ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Trong một vài năm trở lại đây, với những đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể, bộ mặt đất nước đang thay đổi từng ngày. Tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức trên 7% xếp thứ 2 châu Á (sau Trung Quốc) là một minh chứng đầy tự hào. Dưới đây là những thành tựu nổi bật của kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Trong công nghiệp, Nhà nước đã tạo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xoá dần bao cấp, giảm bớt chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến khích các thành phần ngoài quốc doanh, mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư - phát triển công nghiệp. Kết quả đã có hơn 70 khu công nghiệp khắp cả nước dưới nhiều hình thức đa dạng: quốc doanh, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài… Nhờ vậy sản xuất công nghiệp liên tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao: năm 1998 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 12,1%, 1999 tăng 10,4%, 2000 tăng 15,5%... Mới đây nhất sau khi tổng kết sản xuất công nghiệp quý I - 2004 đã có kết quả là sản xuất công nghiệp tăng 10,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Công nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Về nông nghiệp, chúng ta không những giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, mà còn vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới (sau Thái Lan). Nông sản Việt Nam như cà phê, điều, hạt tiêu… với ưu thế xuất khẩu lớn đã có được thương hiệu của mình trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp cũng khá ổn định đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Thủy sản tiếp tục phát triển mạnh và vẫn được xem là mặt hàng xuất khẩu, sau cá Ba sa, tôm Việt Nam đã và đang tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu.
Hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng chuyển biến tích cực và có nhiều khởi sắc, nhất là những năm gần đây: Năm 1999 xuất khẩu đạt 11,5 tỷ USD, năm 2000 đạt trên 14 tỷ USD; năm 2001 đạt 15,3 tỷ USD; năm 2002 đạt 17 tỷ USD và năm 2003 vừa qua trên 20 tỷ USD. Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 150 quôc gia và vùng lãnh thổ, nhiều hàng hóa mang nhãn hiệu “made in Việt Nam” đã có mặt trên thị trường thế giới với số lượng ngày càng nhiều, chủng loại phong phú và chất lượng ngày càng cao.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)