Ý nghĩa của hai phát hiện vĩ đại của Mác, Anghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư
Đăng ngày 07-05-2012 Lúc 09:49'- 6362 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trước thời kỳ XHCN ra đời, xã hội luôn làm sự đấu tranh giai cấp, đấu tranh công nông có sự phân hoá sâu sắc, cụ thể là sau khi cộng đồng nguyên thuỷ tan rã, trong các giai cấp tầng lớp bị áp bức bóc lột đã xuất hiện những tư tưởng muốn phủ định xã hội đương thời, những tư tưởng đó khát vọng đó tuy chưa thực sự rõ rệt và đồng nhất với nhau nhưng điều đó có điểm chung là muốn có một xã hội công bằng bình đẳng, bác ái, nhưng đó cũng là một điểm sáng, một khát vọng nhỏ nhoi là những mớ giả  thuyết chưa thực tế còn yêu sách. Biện pháp để đạt được những mơ ước khát vọng đó còn rất mơ hồ.
Sau khi CNTB ra đời, để tích luỹ tư bản và tạo ra những đội quân lao động làm thuê, giai cấp tư sản dùng mọi biện pháp để bóc lột giá trị thặng dư, để chiếm đoạt tài sản, mang quân đội đi đánh chiếm những vùng đất khác để biến nó thành thuộc địa của mình để có những nguồn nhân công rẻ mạt biến tài nguyên của nước đó thành của mình. Trong bối cảnh lịch sử đó đã xuất hiện những nhà nước XHCN không tưởng, các ông cho rằng phải có một xã hội thực sự bác ái, phải kết hợp những nguyên tắc của CN nhân đạo với nguyên tắc cộng đồng dựa theo lòng mong muốn và trí tưởng tượng của mình. Những tư tưởng ở thời kỳ này tuy vẫn chỉ là ước mơ nhưng đã được kết tinh thành những học thuyết mang tính chặt chẽ hơn, đã phê phán ngày càng sâu sắc những hạn chế của CNTB và phần nào là tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị áp bức bóc lột ngày càng nặng nề.
Tuy nhiên, những tư tưởng, những học thuyết này ngày càng mang tính chặt chẽ hơn mà sau này các nhà sáng lập CNXH - KH đã thừa kế một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa học vì đã nêu được những luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã hội trong tương lai. Hơn nữa, đã nêu được những giá trị nhân đạo, nhân văn, lòng yêu thương, thông cảm và bênh vực đại đa số người lao động, muốn giúp đỡ và giải phóng họ trong các tác phẩm và hành động của mình. Ngoài ra, nó cũng góp phần làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh của giai cấp bị bóc lột.
Tuy vật, CNXH không tưởng còn có những hạn chế của nó là chưa khai phá ra hết bản chất và quy luật vận động của CNTB, chưa phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân - một lực lượng xã hội có đủ khả năng xoá bỏ CNTB để xây dựng thành công CNXH. Lênin từng viết: "CNXH không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không thể giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong XHCNTB, cũng không phát hiện ra những quy luật phát triển của chế độ TBCN và cùng không tìm thấy lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới".
Nhờ hai phát triển vĩ đại của Mác - Ănghen đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà CNXH từ không tưởng trở thành hiện thực. Ta lần lượt xét hai phát kiến đó:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết lịch sử, Mác và Ănghen đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử của mình.
Mác đã từng viết :"Những quan hệ xã hội đều gắn liền với những lực lượng sản xuất. Do có lực lượng sản xuất mới mà loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi các phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp".
Mác đã dùng một tổng thể các quan hệ sản xuất làm tiêu chuẩn trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sự nhân loại, tức là trực tiếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Về sau Anghen viết:"Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử".
Trong học thuyết của mình, Mác đã nhấn mạnh vai trò quyết định của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử. Chứng minh luận điểm này của Mác, Anghen đã cho rằng "Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Do đó, nếu ai coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất  trong lịch sử, khiến cho nó có nghĩa là nhân tố quyết định duy nhất thì như vậy là họ đã biến thành một câu nói trống rỗng, trìu tượng và vô nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở nhưng mọi yếu tố khác của thượng tầng kiến trúc, sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... là dựa trên sự phát triển kinh tế. Hoàn toàn điều kiện kinh tế không phải là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động". Mác đã nhìn thấy động lực của lịch sử do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Trong học thuyết của mình Mác đã bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung một xã hội cấu thành chỉ bởi con người. Quan điểm phi lịch sử về xã hội phải nhường chỗ cho quan điểm lịch sử. Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ hình thành mà không thông qua ý thức. Đó là quan hệ sản xuất mà Mác đã coi những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ khác. Mác đã đánh đổ mọi quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính chất máy móc, có thể tuỳ ý kiến thay đổi theo đủ kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hoá một cách ngẫu nhiên.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)