Vấn đề thành phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam
Đăng ngày 06-05-2012 Lúc 06:27'- 3757 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
I. Một số vấn đề lý luận về KTNN:
1.          Một số khái quát chung về KTNN:
1.1                 Khái niệm chung về thành phần KTNN:
Để hiểu đầy đủ về thành phần KTNN, trước hết ta phải tìm  hiểu thành phần kinh tế nhà nước là gì và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi nào.
Là một nước đi sau trong tiến trình xây dựng CNXH, chúng ta được học hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà tiên phong là Nga (Liên Xô cũ). Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ - đó phải là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đã áp dụng vào thực tiển ở nước ta và đưa ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa phần mang tính đặc trưng của thời kỳ giao thời giữa kinh tế TBCN và XHCN.
Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một kiểu tổ chức kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định có quan hệ quản lý và quan hệ phân phối riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta có ba hình thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó mà hình thành nên các thành phần kinh tế khác nhau.
Thành phần KTNN đã xuất hiện như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam? Ta sẽ trở lại từ những ngày đầu giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào xã hội mới với một nền kinh tế mới. Đảng ta đã lãnh đạo nhân xây dựng đất nước theo con đường XHCN, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị XHCN thì đòi hỏi phải có nền kinh tế đặc trưng cho hình thái chính trị ấy - một nền kinh tế có thành phần chính hình thành trên chế độ công hữu. Trong lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam dựa trên chế độ tư hữu, đó là sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ và sở hữu tư nhân của CNTB. Đối với hình thức này, Nhà nước đã tiến hành cải tổ, sắp xếp để phát triển thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư nhân - là đại diện của quan hệ sản xuất cũ CNTB. Vậy để xây dựng một nền kinh tế mới XHCN, nhà nước đã đầu tư xây dựng các doanh nghiệp của mình trong các nghành kinh tế, kết quả là hình thành nên một thành phần kinh tế mới – KTNN.
Từ đó ta khái niệm được thành phần KTNN là gì? Đó là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phân phối theo lao động.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần KTNN với các thành phần kinh tế khác đó là hình thức sở hữu và nguồn vốn hình thành. Có thể toàn bộ vốn đều thuộc sở hữu nhà nước hoặc có thể phần vốn  đóng góp của nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (>50% vốn).
1.2 Phân loại KTNN:
KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
*Về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
 Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc Doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối.
 Trong ba nhân tố cấu thành KTNN ở trên thì DNNN là nhân tố (hay thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất  trong việc đảm bảo cho KTNN giữ được vai  trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai trò chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN là chủ yếu. Ngay trong nghị quyết  hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Hội nghị đã khẳng định rõ quan điểm “KTNN có vai trò quan trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
DNNN cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc điểm của các thành phần của KTNN và thông thường chúng được chia làm hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do nhà nước giữ 100%  và một loại doanh nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thông thường là những doanh nghiệp có quy mô lớn  có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật - công nghệ  hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Còn các doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp kinh phí - đó là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch vụ công như : An ninh, quốc phòng, giao thông, giáo dục, ytế…..
*Về các tổ chức KTNN:
Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý (kiểm tra, kiểm soát) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia…các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100% vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
*Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước:
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…
 
2.       Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế
2.1. Sự cần thiết có kinh tế Nhà nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước.
Với mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước từ ngày bắt tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cho đến hôm nay, kinh tế Nhà nước đã được hình thành, phát triển với những vcị trí khác nhau trong nền kinh tế nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh té nhất định của từng giai đoạn. Tuy vậy, trong suốt cả thời kỳ lịch sử ấy, kinh tế nhà nước luôn luôn là lực lượng chủ đạo, nòng cốt, là công cụ duy nhất để Nhà nước đưa đất nước đi lên theo con đường Xã hội chủ nghĩa(1955).
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc(1955), đảng và nhà nước đã chủ trương xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo cơ chế kế hoạch hoà tập trung bao cấp để tạo cơ sở ban đầu cho một Nhà nước xã hội chủ nghĩa tương lai khi giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà. Xuất phát điểm từ một nền kinh tế được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, vì vậy bước đầu tiên khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế quốc doanh (Kinh tế quốc dân) và kinh tế tập thể. Từ đây một loạt các xí nghiệp quốc doanh (XNQD) được ra đời bằng nhiều cách khác nhau: do Nhà nước đầu tư xây dựng mới, hoặc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân. Đến cuối thời kỳ cải tạo và khôi phục kinh tế, XNQD đã chiếm ưu thế tuyệt đối trên nền kinh tế quốc dân. Kết quả là kinh tế tư bản tư nhân bị xóa bỏ để chuyển sang một nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vị trí độc tôn. Đến năm 1960, kinh tế quốc doanh vươn lên trở thành lực lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nước ta lúc bấy giờ. Và với chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi lên xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh được giao cho vai trò chủ đạo của nền kinh tế từ đây.
Giai đoạn 1960 đến 1985:
Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đã trải qua những bước thăng trầm về chính trị, xã hội và kinh tế.
Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hình thành như: Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Đông Anh(Hà Nội)… đây là cơ sở để kinh tế quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế quốc doanh trong giai đoạng này có vai trò vừa là công cụ quan trọng để nhà nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm gương phản ánh sự hành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, nó khẳng định con đường mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện chính trị xã hội, thì KTQD luôn là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.
Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên XHCN, nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vì vậy Đảng ta chủ trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc, đồng thời tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ trương đó số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đó sức đóng góp của KTQD trong giai đọan này đã giảm sút, song KTQD vẫn đóng vai trò chủ đạo, tuyệt đối quan trọng công cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)