Mở rộng thị trường xuất khẩu tại Tổng công ty Dệt-May Việt Nam (Vinatex)
Đăng ngày 15-01-2013 Lúc 06:23'- 3183 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG

VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ XUẤT KHẨU.

 
  1. Những vấn đề cơ bản về thị trường.
  1. Khái niệm thị trường.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển được như ngày nay là nhờ các hoạt động trao đổi, lưu thông hàng hoá trên thị trường. Các hoạt động này diễn ra ngày càng và sôi nổi và phức tạp, điều đó đã làm hình thành nên nhiều quan điểm và các cách hiểu khác nhau về thị trường:
Theo cách hiểu đơn giản nhất thì thị trường chỉ đơn thuần là nơi để diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá của con người, trong đó các hoạt động này diễn ra còn rất nhiều hạn chế.
Nhưng đối với những người hoạt động trong lĩnh vực Marketing thì lại cho rằng thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm ẩn có cùng một yêu cầu cụ thể đối với sản phẩm của doanh nghiệp nhưng chưa được đáp ứng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu đó.
Còn từ phương diện Nhà nước, từ phía các nhà hoạch định chiến lược đất nước, từ phía các nhà nghiên cứu thì họ lại có cách hiểu khác về thị trường. Họ cho rằng thị trường là rất rộng lớn và phức tạp, thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm và thị trường nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của cả hai phía cung và cầu về cùng một loại sản phẩm nhất định nào đó theo những thông lệ hiện hành và từ đó xác định rõ số lượng và giá cả của sản phẩm mà cả hai bên cùng chấp nhận được.
  1. Chức năng và vai trò của thị trường.
    1. Chức năng của thị trường[1].
Thị trường có một số chức năng cơ bản sau:
Thị trường có chức năng thừa nhận: Thị trường có chấp nhận sản phẩm của bên bán hay không còn phụ thuộc vào sản phẩm của họ có được bên mua chấp nhận hay không. Còn đối với bên mua, những cái mà họ mong muốn có thể được chấp nhận hay không còn phải tuỳ thuộc và việc có chủ thể nào của bên bán tiếp nhận điều mong muốn đó của họ hay không.
Thị trường có chức năng thực hiện: Chức năng này của thị trường cho ta biết sự trao đổi trên thị trường có được tiến hành thuận lợi hay bị ách tắc giữa hai bên mua và bán không.
Thị trường có chức năng thông tin: Theo đó thị trường cung cấp một cách đầy đủ và cụ thể các thông tin về tình hình cung, cầu và sản phẩm cho cả bên bán và bên mua. Thị trường có phát triển hay không cũng phản ánh rõ bộ mặt kinh tế xã hội của quốc gia đó có phát triển hay không.
Thị trường còn có chức năng điều tiết: Thị trường chính là nơi diễn ra sự thoả thuận giữa hai bên mua và bán về số lượng và giá cả của sản phẩm, do đó nó có tác động tới cả hai phía là bên bán và bên mua (cung và cầu).
  1. Vai trò của thị trường.
Từ các chức năng trên của thị trường ta thấy rằng thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển không chỉ của nền kinh tế nước ta mà còn với cả nền kinh tế thế giới nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển hiện nay. Vai trò đó của thị trường được thể hiện ở chỗ nó đã gắn chặt sản xuất với tiêu dùng, thúc đẩy và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Thị trường buộc các chủ thể kinh tế phải hoạt động một cách thống nhất và tuân theo các quy luật của thị trường. Thị trường ngày càng phát triển, cùng với nó là nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống con người, điều đó đã thúc đẩy con người luôn luôn phát triển và đi lên để đáp ứng chính những nhu cầu đó của họ. Có thể nói rằng thị trường là cơ sở cho cuộc sống ngày càng được đáp ứng cao hơn về nhu cầu của con người.
  1. Phân loại thị trường.
Để việc hoạch định các chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của đất nước thì chúng ta cần phải tìm ra đúng cái mà thị trường cần, mỗi một loại thị trường lại có những nhu cầu khác nhau về những loại sản phẩm khác nhau, do đó việc phân loại thị trường là hết sức cần thiết. Có rất nhiều cách để phân loại thị trường, trong đó có một số tiêu chí phân loại cơ bản sau:
Theo mối quan hệ mua bán với nước ngoài: Thị trường được chia thành hai loại:
Theo từng khu vực trong nước chúng ta có thể chia thị trường thành:
Theo trọng tâm phân bổ nguồn lực của bên bán thì thị trường bao gồm hai loại:
Theo tính chất của sản phẩm được lưu thông trên thị trường ta có:
Theo phương thức bán hàng của bên bán thị trường bao gồm:
Theo mức độ cạnh tranh trên thị trường chúng ta có thể phân chia thị trường theo các mức sau:
Theo mức độ công khai của các hoạt động thị trường thị trường được chia thành:
  1. Phân đoạn thị trường.
Phân đoạn thị trường là việc phân chia thị trường thành những mảng, những đoạn tách biệt tuỳ thuộc vào đặc điểm khác nhau về mầu, thị hiếu tính cách…của người tiêu dùng và khả năng chi phối của người cung ứng[2]. Thông qua việc phân đoạn tính chất mà người cung ứng có thể xác định rõ được phần thị trường mà mình có thể chiếm lĩnh và phục vụ cho người tiêu dùng có ưu thế hơn hẳn so với các nhà cung ứng khác tham gia vào thị trường
Việc phân đoạn thị trường có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Một số phương pháp thường dùng đó là:
  1. Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường.[3]
Trong quá trình hoạt động, thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố với các mức độ khác nhau, đó là các nhân tố :
Cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước: đó chính là các chủ chương, quan điểm phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế xã hội của chính phủ và các cơ quan chức năng như chính sách các thành phần  kinh tế, chế độ sở hữu, chính sách ngân hàng, tài chính…Trong đó bao gồm cả hệ thống các cơ quan công quyền của Nhà nước như hải quan công an….Nếu cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước phát huy được hiệu quả tốt thì thị trường hoạt động tương đốỉ ổn định thị trường sẽ phát huy được mọi vai trò của nó trong nền kinh tế
Mật độ tăng trưởng hay suy giảm của nền kinh tế như: Tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ nợ nước ngoài, tỷ lệ thất nghiệp, mật độ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà nước. Quốc gia nào trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế thì mọi hoạt động của thị trường sẽ diễn ra và ngược lại.
Các nhân tố có tính kinh tế: các nhân tố này có tác động về mỗi phía bên cung và bên cầu. Đó là các yếu tố: mức sống của dân cư được thể hiện qua mức thu nhập và cơ cấu chi tiêu; tình trạng kết cấu hạ tầng được biểu hiện thông qua hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới dân cư, chợ búa…; các quan hệ kinh tế đối ngoại, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; mức độ sử dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất, tỷ giá hối đoái…Các nhân tố này ngày càng phát triển ở mức độ cao thì các hoạt động của thị trường càng đa dạng và phong phú.
Các nhân tố về thể chế chính trị: đó chính là sự ổn định hay biến động của thể chế chính trị trong mỗi quốc gia, tình trạng chiến tranh hay hoà bình của đất nước… Một quốc gia có sự ổn định về chính trị, có hoà bình, nằm trong khu vực ít có sự biến động thì sẽ dễ dàng phát triển được một thị trường vững mạnh.
 
  1. Những lý luận chung về xuất khẩu.
  1. Các khái niệm.
    1. Khái niệm về hàng hoá xuất khẩu[4].
Hàng hoá xuất khẩu ở đây được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá, đó là những sản phẩm hàng hoá hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất hay taị các khu chế xuất nhằm mục đích tiêu thụ tại thị trường nước ngoài có đi qua hải quan. Theo khái niệm này thì hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu, còn các hàng hoá quá cảnh thì không được coi là hàng hoá xuất khẩu.
Như vậy, hàng dệt may xuất khẩu là những sản phẩm dệt may được sản xuất ra tại các doanh nghiệp dệt may nhằm mục đích tiêu thụ tại thị trường nước ngoài có đi qua hải quan hoặc các sản phẩm dệt may tạm nhập tái xuất.
Yêu cầu đối với các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu là nó phải đáp ứng được với nhu cầu của người tiêu dùng tại nước nhập khẩu nó. Chất lượng của hàng hoá phải đáp ứng được với các yêu cầu thông số về kỹ thuật, môi trường…do nước nhập khẩu đưa ra; và một điều quan trọng nữa là nó phải đạt được tính cạnh tranh cao ở nước nhập khẩu nó.
Nhãn mác của hàng hoá xuất khẩu gắn liền với uy tín của doanh nghiệp và quốc gia sản xuất ra sản phẩm đó. Do đó điều mà nước ta quan tâm hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành dệt may là xây dựng và phát triển thương hiệu “Made in Việt Nam”.
  1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Xuất khẩu hàng hoá là những hoạt động buôn bán được diễn ra giữa các doanh nghiệp của các quốc gia khác nhau với nhau với phương tiện thanh toán là những đồng tiền chung hoặc những đồng tiền mạnh trên thế giới, hoạt đông xuất khẩu hàng hoá chính là sự phản ánh các mối quan hệ giữa các quốc gia và sự phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá sản xuất quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá cũng cho chúng ta thấy rõ được sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới.Do đó hoạt động xuất khẩu hàng hoá đòi hỏi cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng trong bản thân mỗi nước và giữa tất cả các nước với nhau.  
  1. Khái niệm thị trường xuất khẩu hàng hoá.
Thị trường xuất khẩu hàng hoá là tập hợp những người mua và người bán có quốc tịch khác nhau hoạt động với nhau để xác định giá cả, sản lượng hàng hoá mua bán, chất lượng hàng hoá và các điều kiện khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới[5].
 Theo khái niệm trên,thị trường xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả thị trường xuất khẩu hàng hoá trực tiếp hay thị trường tiêu thụ hàng hoá cuối cùng, và thị trường xuất khẩu hàng hoá gián tiếp, đó chính là các thị trường xuất khẩu thời gian.Thị trường xuất khẩu không chỉ là thị trường ở ngoài nước mà nó còn là thị trường ở ngay trong chính quốc gia đó hay còn gọi là hình thức xuất khẩu tại chỗ.
  1. Phân loại thị trường xuất khẩu hàng hoá.
Để có thể vạch ra được chiến lược xuất khẩu hàng hoá phù hợp, chúng ta  phải tìm được những khu vực thị trường thích hợp với điều kiện quy mô và sản phẩm của nước xuất khẩu. Do đó việc phân loại thị trường xuất khẩu là hết sức cần thiết.Phân loại thị trường xuất khẩu có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau:
­Căn cứ vào vị trí địa lý chúng ta có thể phân thị trường xuất khẩu ra thành các thị trường khu vưc có quy mô lớn nhỏ khác nhau.
Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương giữa các quốc gia, ta có các loại thị trường :
Căn cứ vào mật độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính xác phát triển thị trường xuất khẩu của quốc gia có lơị thế xuất khẩu hàng hoá thị thị trường xuất khẩu được phân làm hai loại :
Căn cứ vào kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại giữa các nước, thị trường được chia thành:
Căn cứ vào mật đọ mở cửa thị trường, mật độ bảo hộ của chính phủ mỗi nước đối với hàng hoá sản xuất trong nước, tính chặt chẽ và khả năng xâm nhập thị trường, ta có các loại thị trường:
Căn cứ vào sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp của các nước xuất khẩu, tại các nước nhập khẩu ta có:
Căn cứ vào các thoả thuận thương mại cấp chính phủ giữa các quốc gia về xuất nhập khẩu hàng hoá và các yêu cầu của các đối tác thương mại về việc có hạn chế hay không về nhập khẩu hàng hoá ta có các loại thị trường sau:
Căn cứ vào các loại hình cạnh tranh trên thị trường tại nước nhập khẩu hàng hoá, thị trường được phân thành các loại:
  1. Các hình thức xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
Trong xuất khẩu hàng hoá, các doanh nghiệp có thể xây dựng rất nhiều các hình thức xuất khẩu khác nhau. Nhưng trong nghành dệt may nói chung và ở Tổng Công Ty Dệt-May Việt Nam nói riêng với đặc thù nghành nghề riêng đã lựa chọn cho mình một số hình thức xuất khẩu phù hợp đó là: 
  1. Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức kinh doanh mà trong đó người mua và người bán tiến hành trao đổi trực tiếp với nhau, có thể thông qua các phương tiện giao tiếp hiện đại như điện thoại, thư tín, fax, e-mail (thư điện tử)…để thoả thuận với nhau về các điều khoản của hợp đồng.
Thông qua xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao hơn do giảm được các chi phí trung gian, việc xuất khẩu diễn ra nhanh chóng và mang lại hiệu quả cao hơn. Hơn thế các doanh nghiệp còn có thể khắc phục được những thiếu sót và có điều kiện để chủ động thâm nhập vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, để tham gia hình thức xuất khẩu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, giao tiếp tốt, được đào tạo một cách cơ bản, nắm vững và tinh thông những nghiệp vụ về thị trường ngoại thương, tâm huyết với nghề và có kinh nghiệm.
  1. Xuất khẩu uỷ thác.
Đây là hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa một doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu một loại hàng hoá nào đó nhưng không có điều kiện tham gia quan hệ xuất khẩu trực tiếp, mà họ phải tiến hành hoạt động uỷ thác cho một tổ chức trung gian có khả năng tham gia xuất khẩu trực tiếp hàng hoá đó để tiến hành giao dịch mua bán với bên tham gia nhập khẩu. Tổ chức trung gian nhận uỷ thác sẽ tiến hành xuất khẩu hàng hoá với danh nghĩa của mình nhưng moị chi phí đều do bên uỷ thác thanh toán và họ còn nhận được một khoản tiền gọi là phí uỷ thác.
Xuất khẩu hàng hoá thông qua hình thức này các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu không phải tổ chức một bộ máy phục vụ cho công tác xuất khẩu nên giảm được chi phí, đồng thời cũng giúp doanh nghiệp giảm được những rủi ro lớn trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Hình thức xuất khẩu này rất phù hợp với những doanh nghiệp đang gia nhập thị trường mới hay đang tung ra những sản phẩm mới có tính chất thử nghiệm. Bên cạnh đó hình thức xuất khẩu này cũng có một số bất lợi như: làm cho danh nghiệp bị mất quan hệ trực tiếp với thị trường, bị phụ thuộc vào trung gian, bị tách rời với thị trường nên hệ thống thông tin phản hồi từ khách hàng và thị trường thường không chính xác và kịp thời, ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu còn bị mất một khoản phí uỷ thác.
  1. Tái xuất khẩu (tạm nhập, tái xuất).
Theo hình thức này, các hàng hoá xuất khẩu không được sản xuất ở trong nước mà do các doanh nghiệp nhập khẩu vào rồi đem xuất khẩu sang nước khác để hưởng chênh lệch giá.
Tham gia hình thức xuất khẩu này sẽ giúp các doanh nghiệp vẫn đáp ứng được các đơn hàng xuất khẩu mà không phải thay đổi công nghệ sản xuất nên tiết kiệm được chi phí. Tuy nhiên để tham gia hình thức xuất khẩu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải cô cùng nhạy bén và nắm vững các kiến thức về thị trường.
  1. Gia công xuất khẩu.
Gia công xuất khẩu là việc doanh nghiệp xuất khẩu chính là bên nhận gia công cho một doanh nghiệp nước ngoài (bên đặt gia công). Khi đó bên nhận gia công sẽ nhận nguyên phụ liệu, mẫu mã của bên đặt gia công rồi chế biến thành sản phẩm theo đúng như thoả thuận của hai bên và các doanh nghiệp này sẽ nhận được phí gia công.
Phương thức xuất khẩu này có ưu điểm là: giúp cho các doanh nghiệp nhận gia công giải quyết được công ăn việc làm, tranh thủ thu hút công nghệ mới, nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng thu ngoại tệ…Bên cạnh những ưu điểm đó thì cũng có một số nhược điểm như: đòi hỏi các doanh nghiệp nhận gia công phải có thiết bị phù hợp với chủng loại sản phẩm, có một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, phải chấp nhận một phí gia công rẻ…
  1. Các phương thức thanh toán trong xuất khẩu hàng dệt may ở nước ta.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu có rất nhiều các hình thức thanh toán khác nhau nhưng tuỳ theo đặc điểm của mỗi loại hình xuất khẩu, điều kiện của mỗi doanh nghiệp và mối quan hệ với khách hàng mà họ chọn các phương thức thanh toán khác nhau. Các doanh nghiệp dệt may ở nước ta chủ yếu chọn một trong các phương thức thanh toán sau:
  1. Phương thức chuyển tiền (TTR):
Đây là phương thức mà trong đó người cần chuyển tiền yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một khoản tiền nhất định cho người được hưởng lợi ở một địa điểm nhất định bằng một cách nào đó do người chuyển tiền yêu cầu (phương thức này được sử dụng khá phổ biến).
 
 

[1] (18, tr55-57)
[2] (18,tr62)
[3] (18,tr57-58)
[4] (2,tr92-93)
[5] (2,tr93).
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)