Thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định. Thức trạng và giải pháp
Đăng ngày 03-12-2012 Lúc 01:53'- 2213 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT.
 
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là huy động tiền gửi vơí trách nhiệm hoàn trả và cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu làm phương tiện thanh toán.
Ngân hàng ra đời được thừa nhận là một trong những phát minh kỳ diệu nhất của lịch sử thế giới và nó không ngừng đổi mới hoàn thiện để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội từng thời kỳ. Đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay Ngân hàng là một bộ phạn không thể thiếu được và nó luôn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với hoạt động chủ yếu là tiền tệ, tín dụng và thanh toán trong đó thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Ngân hàng được coi là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động của nó bao trùm lên tất cả các hoạt động kinh tế xã hội, đây là hoạt động trung gian gắn liên với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Kinh doanh Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt với đối tượng là tiền tệ. Ngân hàng là trung gian tài chính giữa người gửi tiền và người vay vì vậy Ngân hàng sẽ là công cụ điều tiết hữu hiệu nền kinh tế cũng như một số lĩnh vực phi kinh tế.
Mặc dù không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, song với đặc điểm hoạt động riêng có của mình ngành Ngân hàng giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Những vai trò đó được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất: đối với các cá nhân, đơn vị và các tổ chức kinh tế.
Ngân hàng nhận tiền của họ thông qua thanh toán không dùng tiền mặt mở tại Ngân hàng hoặc Ngân hàng nhận giữ hộ các tài sản quý, các giấy tờ có giá… nhờ vậy mà tiết kiệm được các chi phí cất giữ, bảo quản tiền tệ. Bên cạnh đó, cũng trên cơ sở số tiền gửi của khách hàng Ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền… làm giảm chi phí lưu thông tiền tệ mà vẫn đảm bảo an toàn thuận tiện và lợi ích cho các chủ thể nói trên.
Thứ hai: Đối với lĩnh vực tái sản xuất xã hội.
Ngân hàng tập trung huy động một khối lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế và thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư, cho vay đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thiếu vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế và các cá nhân có điều kiện để mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy quá trình tái sản xuất phát triển.
Thư ba: đối với lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
Ngân hàng giữ vai trò là cơ quan tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ (hạn chế tăng cường khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông) vai trò này được thể hiện thông qua mức lãi suất tiền giửi và tiền vay.
Thứ tư: Đối với Nhà nước.
Ngân hàng là công cụ trực tiếp của Nhà nước để thức hiện các chính sách tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thông qua Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng còn thực hiện quan hệ tín dụng với Ngân hàng thông qua việc cho Ngân sách Nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết, hay bảo quản dự trữ cho Nhà nước mốt số vàng và gnoại tệ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành Ngân hàng nói riêng những vai trò kể trên ngày càng được khẳng định thông qua những lĩnh vực hoạt động cơ bản của Ngân hàng là tiền tệ, tín dụng và thanh toán.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, nó là công cụ nhiệm màu trong quá trình phát triển kinh tế. Tiền tệ cũng có mốt quá trình lưu thông dựa trên cơ sở cảu lưu thông hàng hoá, do vậy ở bất cứ xã hội nào còn sản xuất và lưu thông hàng hoá thì còn tồn tại lưu thông tiền tệ như một quy luật khách quan.
Có rất nhiều các định nghĩa theo các quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về tiền, nhưng chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản tiền là bất cứ thứ gì được chấp thuận chúng  trong việc thanh toán để lấy hàng hoá, dịch vụ hay trong việc hoàn trả các món nợ.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tiền tệ đã ra đời và ngày càng phát triển đạt mức độ tinh xảo và thuận lơị hơn. Bắt đầu từ những hình thức trao đổi giản đơn: hàng đổi hàng đến tiền kim loại: vàng bạc và tiền giấy.
Tiền trong lưu thông bao gồm hai bộ phận là tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi sổ) do vậy công tác thanh toán trong nền kinh tế cũng được thực hiện thưo hai cách thức phù hợp với hai bộ phận tiền tệ này đó là cách thức thanh toán bằng tiền mặt và cách thức thanh toán không dùng tiền  mặt.
Thanh toán bằng tiền mặt là quá trình thanh toán tiền hàng hoá trực tiếp trong đó có một lượng tiền mặt tương ứng với giá trị vật tư hàng hoá được trao đổi, vận động ngược chiều với sự vận động của vật tư hàng hoá đó. Cách thức tiền tệ này chỉ phù hợp với nền kinh tế khi sản xuất hàng hoá còn ở trình độ thấp, sản phẩm hàng hoá dịch vụ không nhiều và hoạt động mua bán chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp. Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển, với khối lượng hàng hoá được trao đổi lớn phạm vi mua bán rộng thì cách thức thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ các nhược điểm như: chi phí in ấn, vận chuyển bảo quản và kiểm đếm lớn, tốc độ thanh toán chậm, khả năng đảm bảo an toàn không cao, hơn nữa với một khối lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông quá lớn dễ gây nên tình trạng lạm phát. Thực tế khách quan đó đòi hỏi phải có một cách thức thanh toán mới, tiên tiến hơn chính vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt đã ra đời và nhanh chóng chiếm ưu thế trong nền kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt là chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch và các khoản khác trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng hoặc bù trừ công nợ mà không vận dụng đến tiền mặt thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác.
Thanh toán không dùng tiền mặt xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người, tuy nhiên nó chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng rộng khắp trong lĩnh vực tài chính đối nội, đối ngoại, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chu chuyển tiền tệ và được coi là cách thức thanh toán hiệu quả nhất. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống vày tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân mở tài khoản tiền giửi và thanh toán hàng dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng.
Như vậy thanh toán không dùng tiền mặt phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, dịch vụ trong lưu thông sự phát triển rộng khắp củat nó trong nền kinh tế thị trường hiện đại là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá, do nên kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, khối lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi trong nước cũng như ngoài nước tăng nhanh, tất yếu phải có cách tức trả tiền thuận tiện, và an toàn và tiết kiệm hơn thanh toán bằng tiền mặt.
1.1.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển thì thanh toán không dùng tiền mặt có vị trí vô cùng quan trọng. Thanh toán không dùng tiền mặt đã mạng lại hiệu quả kinh tế cao và là một phần không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế, điều đó đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Vai trò này được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất – thanh toán không dùng tiền mặt thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn rút ngắn chu kỳ sản xuất, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tác động trực tiếp dến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nó được coi là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất và liên quan đến toàn bộ lĩnh vực lưu thông hàng hoá, tiền tệ của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Do vậy nếu tổ chức công tác thanh toán nhanh chóng an toàn và chuẩn xác sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn và góp phần thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai – thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho Ngân hàng huy động được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để tiến hành đầu tư, cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. Để tham gia công tác thanh toán không dùng tiền mặt các đơn vị,các nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng, trên mỗi tài khoản tiền gửi đó có số lại thấp, hơn nữa việc tiến hành thanh toán chi trả không phải là thường xuyên. Do đó Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế để thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn, nếu có kế hoạch sử dụng tốt sẽ mạng lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho toàn bộ nền kinh tế.
Thứ ba – Trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo ra sự chuyển hoá thông suất giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả hai khía cạnh đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ. Chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế bao gồm hai bộ phận cấu thành đó là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu tổng chu chuyển tiền tệ không đổi mà tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên sẽ làm giảm tỷ trọng tiền mặt một cách tương ứng, từ đó giảm chi phí lưu thông như: chi phí in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền, chi phí về thời gian thanh toán.
Thứ tư - Thanh toán không dùng tiền mặt tạo những điều kiện tiền đề kinh tế thuận lợi để Ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tác nhân kinh tế với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo nguyên tắc thu chi tài chính và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn. Thu chi bằng tiền của các tác nhân thể hiện trên tài khoản tại Ngân hàng, nó phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó để làm căn cứ  cho vay hay thu hồi nợ đồng thời qua việc giám sát, Ngân hàng có thể có những kiến nghị, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển, cũng thông qua việc giám sát tình hình thu chi qua tài khoản mà Ngân hàng có thể kiểm soát tình hình chấp hành các chính sách, chế độ tài chính, các nguyên tắc thanh toán, quản lý tiền tệ ở các doanh nghiệp.
Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt có những vai trò trực tiếp cũng như gián tiếp ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Việt Nam thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tạo điều kiện thuận lơị cho từng thành vien trong nền kinh tế đạt được hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh và thúc đẩy nền kinh tế  ngày càng phát triển.
1.2. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Các quy định chung về thanh toán không dùng tiền mặt.
Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những chức năng chủ yếu của Ngân hàng thương mại, vì vậy các Ngân hàng luôn quan tâm đến vông nghệ  thanh toán dể công  tác thanh toán này ngày càng mở rộng và phát triển. Sự quan tâm này được tể hiện rõ nét nhất la thốc đốc Nhà nước Nhà nước đã ban hành Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 21/2/1994 về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, NĐ 30/CP ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc,, thông tư 07/TT-NH1 hướng dẫn thực  NĐ 30/CP. Chính những Quyết định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt được hoàn thiện và phát triển.
Những quy định chung về thanh toán không dùng tiền mặt theo QĐ 22/QĐ-NH1.
Điều 1: Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được quyền lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Các đơn vị và cá nhân có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt phải theo những quy định trong thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt.
Điều 2: Việc mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng và việc thực hiện thanh toán qua tài khoản được ghi bằng VND, trường hợp mở tài khoản và thanh toán bằng ngoại tệ phải thực hiện theo cơ chế quản lý ngoại hối của chính phủ ban hành.
Điều 3: Để đảm bao thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ tài khoản phải có đủ điều kiện tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng là phạm pháp và phải bị xử lý theo pháp luật.
Điều 4: Ngân hàng có trách nhiệm:
-         Thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản bảo đẩm chính xác, an toàn và thuận tiện. Các nhà có trách nhiệm chi trả bằng tièn mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tièn gửi theo yêu cầu của chủ tài khoản.
-         Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoan trược khi thực hiệ thanh toán và được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản đó không đủ tiền và chịu trách nhiệm liên đới của hai bên khách hàng.
-         Nếu do thiếu sót trong qúa trình thanh toán gây thiệt hại  cho khách hàng thì phải bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể xử lý theo pháp luật.
Điều 5: Ngân hàng chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản cho các cơ quan ngoài Ngân hàng khi có các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 6: khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được thu phí theo quy định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.2.2. Chứng từ và tài khoản kế toán.
Bất kỳ mốt hệ thống thanh toán nào cũng cần có các yéu tố, cac giai đoạn thanh toán nhất định. Để thực hiện được một quá trình thanh toán thì phải có các công cụ thanh toán, các hình thực thanh toán, phương thức thanh toán cụ thẻ. Mỗi hình thức thanh toán lại có những quy định, những tiền khoản về thanh toán và có các chứng từ , tài khoản phù hợp.
Các chứng từ thường được sử dụng trong thanh toán không dùng tiền mặt gồm: các loại séc thanh toán: séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc chuyển tiền, giấy uỷ nhiệm thu, UNC, giấy mở thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán, thẻ tín dụng, giấy báo và các bảng kê.. Để phù hợp với đặc điểm hoạt động cùa từng hệ thống Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước có những quy định cho những mẫu chứng từ thanh toán cụ thể.
Chứng từ dùng trong thanh toán không dùng tiền mặt có đặc điểm vừa là chứng từ gốc vừa là chứng từ ghi sổ, các chứng từ này do chính khách hàng lập ra mà Ngân hàng không được tự ý sửa chữa, bổ sung. Nhưng để đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp của các chứng từ, Ngân hàng luôn phải kiểm tra kỹ lưỡng trước khi hoạch toán.
Việc thực hiện kế kế toán thủ công thì chứng từ phải lập đủ số liên ghi vào tài khoản có cùng các giấy báo nợ, giấy báo có gửi cho khách hàng tham gia thanh toán. nhưng ngày nay, việc thực hện kế toán trên máy tính toàn bộ nên số lượng các liên của mỗi bọ chứng từ giảm bớt nhưng vẫn đủ số lượng đáp ứng chu cầu hạch toán và việc thực hiện kế toán trên máy vi tính, truyền nhận thông tin bằng hệ thống tự động đã làm tăng độ chính xác, nhanh chóng trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Nhóm tài khoản của khách hàng:
TK 431; tiền gửi của khách hàng trong nước bằng VND.
TK 432: tiền gửi của khách hàng trong nước bằng ngoại tệ.
TK 435: tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng VND.
TK  436: tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng ngoại tệ.
+ Nhóm tài khoản cho vay băng nội tệ và ngoại tệ đối với khách hàng trong nước và nước ngoài.
-         TK 466: nhận ký quỹ bằng VND.
TK 4661: tiền ký gửi để đảm bảo thanh toán séc.
          TK 4662: tiền ký gửi để mở thư tín dụng.
          TK 4663: tiền ký gửi để bảo đảm than toán thẻ
-         TK 467: nhận ký quỹ bằng ngoại tệ.
TK 4671: tiền ký gửi để bảo đảm thanh tón séc.
TK 4672: tiền ký gửi để mở thư tín dụng.
TK 4673: tiền ký gửi để bảo đảm than toán thẻ.
-         TK 464: chuyển tiền phải trả bằng VND.
TK 456: chuyển tiền phải trả bằng ngoại tệ.
-         Nhóm tài khoản liên quan.
TK 5211: liên hàng đi năm nay.
TK 5212: liên hàng đến năm nay.
TK 1113 tiền gửi thanh toán tại ngân hàng nhà nứơc bằng VND
TK 5111:chuyển tiền đi năm nay
TK5112: chuyển tiền đến năm nay
1.2.3.    Các  hình thức thanh toán không dùng tiền mặt Hiện hành.
Theo quyết định số 22/ QĐ-NH1 ban hành ngày 21/02/1994 về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt  thì các đơn vị và cá nhân được áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sau:
-         Séc: ( séc lĩnh tiền mặt, sẽc chuyển khoản, séc bảo chi).
-         Uỷ nhiệm chiệm chuyển tiền
-         Uỷ nhiệm thu
-         Thư tín dụng
-         Ngân phiếu thanh toán
-         Thẻ thanh toán
1.2.3.1.thanh toán bằng séc
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lâp trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình tính tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc cầm séc đó.
Séc là một loại chứng từ thanh toán được áp dụng rổng rãi ở tất cả các nước tren thế giới, quy tắc sửt dụng séc đã được chuẩn hoá trên luật thương mại quốc tế và trên công ước quốc tế.
Nghị định 30/CP của chính phủ ban hành về quy chế phát hành và sdử dụng séc do thủ tướng Chính phủ ký ngày 09/05/1996 quy định rõ ở Việt Nam được phép lưu hành loại séc vô danh và séc ký danh, trong đó séc vô danh được chuyển nhượng tự do, còn séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng.
Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào Ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ). Nếu ngày kết thúc của thời hạn là ngày chủ nhật, ngày lễ thì thời hạn được lùi vào ngày làm việc tiếp theo đầu ngày  chủ nhật và ngày lễ đó.
Séc được áp dụng cho các đơn vị và cá nhân mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng nhưng Ngân hàng sẽ không chấp nhận mở tài khoản và bán séc đối với những khách hàng có tên cấm phát hành séc do Ngân hàng Nhà nước thông báo. Chủ tài khoản chỉ được phép phát hành séc trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi của mình tại Ngân hàng.
Séc là loại chứng từ thanh toán quan trọng nên cả người phát hành và người thụ hưởng cần bảo quản chặt hẽ. Khi xảy ra mất séc phải tông báo ngay cbằng văn bản cho Ngân hàng nơi mở tài khoản, nếu thông báo đến khi tờ séc đã được thanh toán thì phải chịu thiệt hại. Trách nhiệm về phía Ngân hàng thì không được phép thanh toán séc đã có thông báo mất séc của chủ tài khoản, nếu thanh toán những tờ séc đó thì Ngân hàng phải đền bù thiệt hại cho người mất séc.
ở Việt Nam hiện nay, séc có thể dùng để lĩnh tiền mặt, có thể dùng để chuyển khoản và nếu cần thì khách hàng phải đến Ngân hàng làm thủ tục bảo chi.
1.2.3.1.1.     Séc lĩnh tiền mặt.
Séc lĩnh tiền mặt là loại séc chỉ được dùng để rút tiền mặt tại Ngân hàng nơi đơn vị mở tài khoản.
Séc dùng để lĩnh tiền mặt khi có hai đường song song chéo góc ở phía trên bên trái hoặc không có chữ “chuyển khoản” ở mặt trước tờ séc.
·        Thủ tục thanh toán:
-         Người lĩnh tiền mặt sẽ nộp séc trong đó đã ghi rõ họ tên, số CMND của mình trên tờ séc có kèm theo CMND của mình vào Ngân hàng nơi phát hành séc mở tài khoản.
-         Ngân hàng thanh toán kiểm tra điều kiện thanh toán của tờ séc, đối chiếu họ tê, số CMND ghi tên trên tờ séc với họ tên và CMND của người lĩnh tiền. Nếu đáp ứng yêu cầu hợp lệ, đủ đối chiếu thanh toán, số dư tài khoản đủ để thanh toán thì Ngân hàng sẽ ghi ngày tháng năm thanh toán và ký tên sau đó làm thủ tục chi trả tiền mặt cho khách hàng và hạch toán.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)