Danh mục 1060 đầu sách mới được cập nhật trên trang GiangVien.Net
Mời các bạn Nhấn vào đây để xem. Hiện trang web đang trong quá trình tải sách lên nên nếu như cuốn sách nào bạn không tìm thấy trên trang web này. Bạn có thể nhấn vào đây để nhắn tin  với chúng tôi. Chúng tôi sẽ gửi sách đến bạn.
Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng và sự thống nhất giữa các mặt đối lập vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay
  • Mâu thuẫn biện chứng và sự thống nhất giữa các mặt đối lập vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay

     

  • Đăng ngày 10-07-2024 11:19:16 AM - 6559 Lượt xem
  • Mã tài liệu: T104
  • Số trang: Liên hệ
  • Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải quyết và nếu được...

I. LÝ LUẬN CHUNG
Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau… ở đây chúng ta chia làm hai phần.
1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất.
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó, cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật hiện tượng có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn "thống nhất" của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chung đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiêu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật nào.
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh đựơc bản chất của sự phù hợp của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm "động" phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được coi là thoả đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ dân cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tương đối, bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó; Thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
Đấu tranh các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bêNhà nước hau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
2. Chuyển hoá của các mặt đối lập
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đén chuyển hoá, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
II. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chu trình xã hội, nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Như chúng ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là một đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Sự thực thì không phải hoàn toàn như vậy, nền kinh tế tập trung không chỉ là sản phẩm riêng biệt của CNXH, cũng như nền kinh tế tập trung không chỉ là sản phẩm riêng biệt của CNXH, cũng như nền kinh tế thị trường không phải duy nhất được thiết lập trong CNTB. Nền kinh tế tập trung đã được các nước tư bản áp dụng từ trước nhiều nước xác lập chế độ XHCN. Nhưng các nước TBCN đã xóa bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, xã hội. Nhưng công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cái duy nhất bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển kinh tế theo hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
Ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nói đang trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh đựơc những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc, sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Kinh tế thị trường , như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế - xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Với quan hệ cung - cầu…
Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sông xã hội quan hệ hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì hiện nay, cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị trường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới - mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấynhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xã hội CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

  Ý kiến bạn đọc

 



Danh mục sách
Danh mục tài liệu
Sách mới cập nhập
Thống kê
  • Đang truy cập100
  • Máy chủ tìm kiếm46
  • Khách viếng thăm54
  • Hôm nay15,894
  • Tháng hiện tại166,726
  • Tổng lượt truy cập2,113,873
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây