LỜI MỞ ĐẦU
Với ưu thế về điều kiện sinh thái và lao động, Việt Nam có tiềm năng lớn về sản xuất các loại rau quả mà thị trường thế giới có nhu cầu như chuối, vải, dứa, xoài nhãn, chôm chôm… và một số loại rau vụ Đông có giá trị kinh tế cao như dưa chuột, khoai tây, cà chua, ngô rau… Những năm trước đây, khi còn thị trường Liên Xô và các nước trong khối SEV, năm cao nhất Việt Nam đã xuất khẩu được khối lượng rau quả tươi và rau quả chế biến trị giá 30 triệu Rúp chuyển nhượng. Từ khi đất nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, do thị trường truyền thống bị thu hẹp, thị trường mới còn đang trong giai đoạn thử nghiệm, chưa ổn định, hơn nữa chất lượng, số lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm đạt được còn rất thấp. Nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu các loại rau quả của Việt Nam với mốt số nước Châu Á có tiềm năng vế sản xuất các loại rau quả như nước ta thì kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam còn rất thấp. Điều đó chứng tỏ tiềm năng lớn về xuất khẩu rau quả chưa được khai thác.Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân hạn chế khả năng xuất khẩu rau quả cho thấy ngoài lý do biến động thị trường xuất khẩu truyền thống thì một nguyên nhân quan trọng khác là chưa có những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy xuất khẩu rau quả. Một thời gian dài, ở tầm vĩ mô, chúng ta còn coi nhẹ sản phẩm rau quả, chưa đánh giá đúng mức lợi thế so sánh của nó trong lĩnh vực xuất khẩu.Cho nên, việc nghiên cứu những giải pháp và đề xuất các chính sách tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thời gian tới là rất cấp thiết góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu rau quả nên em đã quyết định chọn đề tài:Một số ý kiến về hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở Việt NamĐề tài này sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất các chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số sản phẩm rau quả ở Việt Nam từ nay tới năm 2010, trong đó tập trung vào một số loại quả như chuối, dứa, vải và rau vụ Đông.Đề tài gồm 3 chương, được trình bày như sau:Chương I: Vai trò của cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc thúc đẩy xuất khẩu rau quảChương II: Phân tích thực trạng xuất khẩu rau quả và hệ thống chính sách tác động tới xuất khẩu rau quả của Việt Nam.Chương III: Một số định hướng và hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu một số sản phẩm rau quả của Việt Nam từ nay đến năm 2010Do thời gian có hạn cùng với kiến thức và sự hiểu biết của em về lĩnh vực xuất nhập khẩu rộng lớn và phức tạp còn hạn chế, do vậy đề tài này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự dạy dỗ và chỉ bảo của các thầy cô giáo.Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: Hoàng Minh Đường cùng các thầy cô giáo trong khoa Thương Mại và các cô chú cán bộ Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương Mại đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này.
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU RAU QUẢ
I/ Xuất khẩu rau quả và các hình thức xuất khẩu rau quả ở Việt Nam hiện nay
1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá rau quả và dịch vụ do các doanh nghiệp của Tổng công ty hoặc do các doanh nghiệp của các địa phương trong nước sản xuất, tới khách hàng nước ngoài thông qua các đơn vị thành viên của Tổng công ty.
Về nguyên tắc: Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rui ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật:
- Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận doanh nghiệp
- Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và thị trường, biết được nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường, biết được nhu cầu của người tiêu dùng và tiến độ tiêu thụ hàng hoá của thị trường thế giới, trên cơ sở đó có thể điều chỉnh khả năng cung ứng sản phẩm và những điều kiện bán hàng cần thiết.
2. Xuất khẩu uỷ thác
Đây là hinh thức kinh doanh, trong đó đơn vị xuất khẩu đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất, tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thường và các thu tục cần thiết khác, để xuất khẩu hàng hóa do người khác sản xuất, thông qua đó thu được một số tiền nhất định dưới hình thức phí uỷ thác xuất khẩu.
Hình thức này bao gồm các bước:
* Ký hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với các đơn vị trong nước.
Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hoàng và thanh toán tiền với bên nước ngoài.
* Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần bỏ vốn kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động, đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể trong hoạt động xuất khẩu uỷ thác. Không chịu trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại về chất lượng hàng hoá uỷ thác.
3. Xuất khẩu theo Nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá ( thường là để trả nợ nước ngoài) được ký kết hợp đồng theo nghị định giữa hai chính phủ.
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, xúc tiến thương mại và thường không có sự rủi ro trong thanh toán thương mại.
Trên thực tế, hình thức này chỉ tồn tại trong thời kỳ cơ chế tập trung bao cấp, thị trường xuất khẩu rau quả chủ yếu là Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa ở khu vực Đông Âu. Hình thức xuất khẩu hàng hóa theo Nghị định thư của Chính phủ chỉ giao nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp Nhà nước đảm nhiệm, Hình thức này đã chấm dứt từ năm 1995, đến nay nền kinh tế nước ta thực sự vận động theo cơ chế thị trường.
4. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển và có xu hướng phát triển rộng rãi do nó có những ưu điểm sau:
- Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá không vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể mua được hàng hoá. Do vậy, nhà xuất khẩu không cần đích thân ra nước ngoài để đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại đến trực tiếp đàm phán với người xuất khẩu.
- Mặt khác, doanh nghiệp cũng không cần phải tiến hành các thủ tục như: thủ tục tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hóa, thuê phương tiện vận tải vận chuyển. Do đó giảm được một số chi phí khá lớn.
Trong thời kỳ nền kinh tế ta mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới, đầu tư nước ngoài và kinh tế du lịch ngày càng phát triển, khách du lịch và dân di cư tạm thời ngày càng tăng nhanh. Các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả có thể liên hệ trực tiếp với các hoạt động cung cấp dịch vụ hoặc bán hàng để thu ngoại tệ. Ngoài ra doanh nghiệp có thể sử dụng chính số khách du lịch này làm nhân tố quảng cáo và khuyến trương sản phẩm của doanh nghiệp.
- Sản xuất trong nước phát triển và mở rộng các hình thức đầu tư, xuất hiện một loạt khu chế xuất ra đời, cần sử dụng rau quả, việc đáp ứng được nhu cầu cho tổ chức này cũng chính là hình thức xuất khẩu có hiệu quả và đang được nhiều doanh nghiệp chú ý sử dụng. Việc thanh toán tiền theo phương thức này cũng rất nhanh chóng, có thế là đồng nội tệ, hoặc ngoại tệ do hai bên tự thoả thuận trong hợp đồng thương mại.
II/ Kinh nghiệm của một số nước thành công trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước thành công trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả như Malaysia, Inđônêsia, Thái Lan… cho thấy chính phủ rất quan tâm tới việc phát triển ngành rau quả trong đó có lĩnh vực xuất khẩu rau quả. Sự quan tâm đó thể hiện thông qua các chủ trương phát triển các vùng rau quả tập trung hay nói cách khác là xúc tiến việc sản xuất rau quả trên quy mô lớn. Và sau đó, các đơn vị sản xuất rau quả quy mô lớn sẽ được hình thàn bởi các tư nhân. Chính các tư nhân cũng rất tự nguyện đầu tư công nghệ, các phương tiện chế biến và tiếp thị cho các chủ trang trại nhỏ nhằm tạo ra hàng hoá.
1. Kinh nghiệm của Malaysia
Trong những cố gắng xúc tiến phát triển nhanh chóng công nghiệp, Chính phủ cũng đưa ra những khuyến khích về mặt tài chính đầy sức hấp dẫn, hay những khuyến khích đầu tư, khuyến khích về thuế nhằm hỗ trợ người sản xuất.
Malaysia còn khuyến khích sản xuất lớn loại cây ăn quả. Các loại cây này được cân nhắc, lựa chọn trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước, trong đó bao gồm cả các loại rau quả có nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước. Đồng thời, các vụ chức năng trực thuộc Bộ Nông Nghiệp còn thực hiện các dịch vụ tư vấn cho sản xuất, tư vấn tiếp thị cho các nhà quản lý. Các vườn cây ăn quả được tổ chức theo nhóm có thể trợ giúp dưới hình thức tín dụng, cung ứng các yếu tố đầu vào và các điều kiện tiếp thị.
Ở Malaysia còn có hội đồng ngành cây ăn quả được thành lập nhằm mục đích xúc tiến sự liên kết giữa các khu vực nhà nước và tư nhân. Mạng lưới của Hội đồng gồm các đại diện của các Bộ, cục, các công ty, các trường đại học và các đơn vị tư nhân có liên quan tới sụ phát triển của ngành cây ăn quả.
Malaysia còn thực hiện những khuyến khích trong việc trồng cây ăn quả hàng hoá. Phù hợp với các mục tiêu của chính sách nông nghiệp quốc gia, chính phủ Malaysia hàng năm vẫn đưa ra những khuyến khích về tài chính và tiền tệ nhằm khuyến khích việc trồng, chế biến, xuất khẩu các loại cây ăn quả phổ biến ở Malaysia trên quy mô các công ty ( bao gồm hợp tác xã nông nghiệp, các nông hội, các công ty cổ phần….) muốn tham gia vào việc trồng cây ăn quả để bán đều có quyền được hưởng các khuyến khích về thuế ( ví dụ: các đơn vị mới tham gia kinh doanh được khuyến khích miễn giảm thuế trong 5 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện.
Chúng tôi trên mạng xã hội