Danh mục 1060 đầu sách mới được cập nhật trên trang GiangVien.Net
Mời các bạn Nhấn vào đây để xem. Hiện trang web đang trong quá trình tải sách lên nên nếu như cuốn sách nào bạn không tìm thấy trên trang web này. Bạn có thể nhấn vào đây để nhắn tin  với chúng tôi. Chúng tôi sẽ gửi sách đến bạn.
Đề tài Vai trò của lao động trong phát triển kinh tế
  • Vai trò của lao động trong phát triển kinh tế

     

  • Đăng ngày 16-08-2024 10:55:50 AM - 7893 Lượt xem
  • Mã tài liệu: DA370
  • Số trang: Liên hệ
  • Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong qúa trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người đưược hưưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đới sống vật chất, tinh thần cho con người. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều...

Lời nói đầu

 
Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong qúa trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người đưược hưưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đới sống vật chất, tinh thần cho con người. Lao động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra, trong đó lao động đóng vai trò trực tiếp sản xuất  ra của cải đó. Trong một xã hội dù lạc hậu hay hiện đại cũng cân đối vai trò của lao động, dùng vai trò của lao động để vận hành máy móc.Lao động là một yếu tố đầu vào của mọi qúa trình sản xuất không thể có gì thay thể hoàn toàn được lao động.
Với Việt Nam là một nưước đang phát triển và muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì cần đề cao vai trò của lao động trong phát triển kinh tế. Những lý do trên là cơ sở của Đề tài “Vai trò của lao động trong phát triển kinh tế Việt Nam”. Nội dung của đề tài là phân tích thực trạng của lao động Việt Nam hiện nay và phưương hưướng giải quyết để phát huy vai trò của lao động góp phần phát triển kinh tế.
Đề tài đưược hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung. Khoa KTPT- ĐHKTQD-HN.
 
                                                          Hà Nội, tháng 2 năm 2004
                                                                  Đinh Trọng Khôi
 
 
 
 

Chương I

Sự cần thiêt phải nâng cao vai trò

của lao động phát triển kinh tế

     
I.Vai trò của lao động trong tăng trưởng và phát triển kinh tế
          1.Một số khái niệm cơ bản
           a.Lao động
               Lao động là hoạt động có mục đích của con người.Lao động là một hành động diễn ra giưã người và giới tự nhiên.Trong quá trình lao động con người vận dụng sức tiềm tàng trong thân thể mình,sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất tự nhiên,biến đổi vật chất đó,làm cho chúng có ích cho đời sống của mình.Vì thế lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sống con người,là một sự tất yếu vĩnh viễn là môi giới trong sự trao đổi vật chất giữa tự nhiên và con người.Lao động chính là việc sử dụng sức lao động.
           b. Nguồn lao động (hay lực lượng lao động). Là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm), và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm, nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm; những người đang đi học, nhữngngười đang làm nội trợ trong gia đình và những người thuộc tính khác(nghỉ hưu trước tuổi quy định).
           Cần biết là trong nguồn lao động chỉ có bộ phận những người đang tham gia lao động là trực tiết góp phần tạo ra thu nhhập của xã hội
         2. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng lao động và chất lượng lao động
          2.1. ảnh hưởng đến số lượng lao động.
a. Dân số.
          Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và cơ cấu đân số có ý nghĩa quyết định đến qui mô và cơ cấu của nguồn lao động. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động của dân số là: phong tục, tập quán của từng nước; trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế và chính sách của
từng nước đối với vấn đề khuyến khích hoặc hạn chế sinh đẻ.
          Tình hình tăng dân số trên thế giới hiện nay có sự khác nhau giữa các nước. Nhìn chung, các nước phát triển có mức sống cao thì tỷ lệ tăng đân số thấp; ngược lại ở những nước kém phát triển thì tỷ lệ tăng dân số cao. Mức tăng dân số bình quân của thế giới hiện nay là 1,8%, ở nước châu Âu thường ở dưới mức 1%, trong khi đó ở các nước châu á là 2%-3%và các nước châu Phi là 3-4%. Hiện nay ba phần tư dân số thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số tăng nhanh trong khi phát triển kinh tế tăng chậm, làm cho mức sống của nhân dân không tăng lên được và tạo ra áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm. Do đó kế hoạch dân số đi đôi với phát triển kinh tế là vấn đề quan tâm của các nước đang phát triển.
          b. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
         Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc ở trong tình trạng khác(nghỉ hưu trước tuổi )
        Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thường được sử dụng để ước tính quy mô của dự trữ lao động trong nền kinh tế và có vai trò quan trọng trong thống kê thất nghiệp.
         c. Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp
         Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Số người không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế.
         Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó không chỉ tác động về kinh tế mà tác động cả về khía cạnh xã hội.
         Theo cách tính thông thường tỷ lệ thất nghiệp tính bằng tỷ lệ % giữa tổng số người thất nghiệp và tổng số nguồn lao động. Nhưng đối với các nước đang phát triển tỷ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động chưa sử dụng hết. Trong thống kê thất nghiệp ở các nước đang phát triển, số người nghèo thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ và khi họ thất nghiệp thì họ cố gắng không để thời gian đó kéo dài. Bởi vì họ không có các nguồn lực dự trữ, họ phải chấp nhận mọi việc nếu có. Do đó ở các nước đang phát triển để biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết lao động người ta dùng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Thất nghiệp trá hình gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình.
          Người ta cho rằng thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính của tình trạnh chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có việc làm, trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng làm việc với mức năng suất thấp, họ đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất. Vấn đề khó khăn là không đánh giá được chính xác nguồn lao động chưa sử dụng hết dưới hình thức bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp vô hình.
          d. Yếu tố thứ tư là thời gian lao động.
          Thời gian lao động thường được tính bằng: số ngày làm việc/năm;số giờ làm việc /năm; số ngày làm việc/tuần; số giờ làm việc/tuần hoặc số giờ làm việc/ngày. xu hướng chung của các nước là thời gian làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng cao.     
       2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động
          Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác cần được xem xét đến chất lượng lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn.
          Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông,con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người có thể nhận thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải tất cả những người, ví dụ như đã tốt nghiệp hết cấp III có thu nhập cao hơn những người mới chỉ tốt nghiệp cấp I, nhưng đa số là như vậy, và mức thu nhập của họ đều cao hơn nhiều.Nhưng để đạt được trình độ nhất định cần phải chi phí khá nhiều, kể cả chi phí của gia đình và quốc gia. Đó chính là khoản chi phí đầu tư cho con người. ở các nước đang phát triển giáo dục được được thể hiện dưới nhiều hình thức nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn cho mọi người.
    Kết quả của giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trinh độ tạo khả năng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Công nghịêp thay đổi càng nhanh càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối với việc tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức.
       Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 1996-2000 đã xác định mục tiêu : tăng tỷ trọng số người tốt nghiệp phổ thông cơ sở trong độ tuổi lao động lên 55%-60% và tỷ lệ những người lao động qua đào tạo trong tổng số lao động lên 22%-25% vào năm 2000.

  Ý kiến bạn đọc

 



Danh mục sách
Danh mục tài liệu
Sách mới cập nhập
Thống kê
  • Đang truy cập56
  • Máy chủ tìm kiếm38
  • Khách viếng thăm18
  • Hôm nay14,836
  • Tháng hiện tại258,902
  • Tổng lượt truy cập2,742,063
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây