Quy chế thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu hút vốn đầu tư nước ngoài, những năm gần đây chính phủ đã có những chủ trương thành lập các khu công nghiệp đưa phần lớn các xí nghiệp, công nghiệp tập trung vào nơi được xây dựng sẵn để đảm bảo cho chúng được hoạt động tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để các khu công nghiệp phát triển tốt, cần thiết lập các môi trường đầu tư thuận lợi. Trong đó môi trường pháp lý là một trong các môi trường đóng vai trò quyết định.
LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu hút vốn đầu tư nước ngoài, những năm gần đây chính phủ đã có những chủ trương thành lập các khu công nghiệp đưa phần lớn các xí nghiệp, công nghiệp tập trung vào nơi được xây dựng sẵn để đảm bảo cho chúng được hoạt động tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để các khu công nghiệp phát triển tốt, cần thiết lập các môi trường đầu tư thuận lợi. Trong đó môi trường pháp lý là một trong các môi trường đóng vai trò quyết định.
Mục tiêu của Đề tài Nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc hình thành xây dựng phát triển và quản lý khu công nghiệp.
Nghiên cứu dưới góc độ pháp lý.
Bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thấy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình về tài liệu cũng như phương pháp nghiên cứu của thầy Phạm Văn Luyện đã giúp em hoàn thành đề tài.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ VỀ KHU CÔNG NGHIỆP.
1. Khái niệm, đặc điểm và các loại khu công nghiệp.
Khu công nghiệp là khu tập trung chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất, giới địa xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Khu công nghiệp cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu - triển khai khoa học-công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất nhập khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này.
Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
Doanh nghiệp sản xuất khu công nghiệp là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp.
Doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, dịch vụ sản xuất công nghiệp.
Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh (trừ trường hợp có quy định riêng cho từng loại ban quản lý) là cơ quan quản lý trực tiếp các khu công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc ban quản lý trên địa bàn liên tỉnh hoặc ban quản lý khu công nghiệp (trường hợp các biệt) hoặc ban quản lý khu công nghệ cao do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Trong khu công nghiệp có các loại doanh nghiệp sau đây:
Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Vai trò của việc xây dựng khu công nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xu hướng đô thị hoá cùng với quá trình phát triển các khu công nghiệp có tính phổ biến ở các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các khu công nghiệp hinh thành tạo ra các cửa mở hội nhập với thế giới, tạo động lực tăng trưởng cho vùng và cả nước.
Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước muốn tiếp nhận vốn đầu tư đều phải tìm cách tạo môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó bao gồm cả môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện đi đôi với môi trường kinh doanh thuận lợi. Kinh nghiệm các nước đang phát triển chỉ ra mô hình khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung đã đáp ứng được nhu cầu cải thiện môi trường đầu tư trong một thời gian tương đối ngắn, nhờ đó đã thu hút được một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn vào trong nước, tập trung sức cho quá trình tăng trưởng nền kinh tế.
Phân tích sự chuyển dịch của dòng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài trên thế giới, các nhà kinh tế đều đi đến khẳng định rằng đồng vốn chỉ đổ về nơi nào có khả năng làm cho nó sinh lời, nhờ đó đồng vốn được bảo toàn và đem lại lợi nhuận cần thiết cho chủ đầu tư. Chính quy luật đó đã quy định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới trong mấy thập kỷ qua, phần lớn đã đổ dồn về các nước tư bản phát triển gây nên tình trạng thiếu vốn đầu tư ở ác nước đang phát triển. Vì vậy sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế ở các nước đang phát triển càng thêm gay gắt. Các nước châu Á và tiếp theo là các nước ASEAN đã sớm nhận ra và tìm cách khắc phục mâu thuẫn đó. Đồng vốn muốn vận động sinh lời cần phải có một môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm môi trường pháp lý hoàn thiện và môi trường kinh doanh thuận lợi.
Về môi trường pháp lý: nếu như sự ổn định về chính trị - xã hội trong nước là yếu tố đầu tiên đảm bảo thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước thì môi trường pháp lý là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường đầu tư. Môi trường pháp lý lành mạnh tiến bộ, phù hợp với thônglệ quốc tế... là một tiêu chí để nhà đầu tư lựa chọn, quyết định đầu tư. Bởi đồng vốn bỏ ra mà thậm chí còn nhiều rắc rối có khi liên quan đến tính mạng của người đầu tư và gia đình họ do sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, văn hoá và thái độ chính trị ở nước nhận đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài từ các nước tư bản phát triển, quen sống trong một môi trường pháp lý tương đối hoàn chỉnh sẽ rất khó xử khi có những sự cố xaỷ ra nếu như không dựa vào pháp luật để điều chỉnh. Vậy môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư phải bao hàm cả một hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ vận hành có hiệu quả. Nó là một trong những yếu tố quyết định, trên cơ sở đó sẽ tạo lập nên một một môi trường kinh doanh có hiệu quả. Môi trường pháp lý đó phải có định hướng rõ ràng, hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động ở nước sở tại một cách dễ dàng, thuận lợi nhất.
Về môi trường kinh doanh: được coi là thuận lợi khi ít nhất phải hội tụ đủ các yếu tố như kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại, hệ thống luật pháp và tư pháp tốt, hệ thống tài chính và tiền tệ tương đối ổn định, có hiệu quả, an ninh kinh tế và an toàn xã hội được bảo đảm...
Hai nhân tố trên được coi là điều kiện cần thiết có ý nghĩa tiên quyết cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Song, chính nó cũng là hai lỗ hổng hay hai điển yếu ở tất cả các nước đang phát triển đều mắc phải, không dễ gì khắc phục nhanh chóng do nguyên nhân khách quan và cả nguyên nhân chủ quan. Các nước đang phát triển chưa có một hệ thống pháp luật hoàn hảocùng với một môi trường kinh doanh thuận lợi, nên việc đáp ứng ngay những yêu cầu trên cho nhà đầu tư nước ngoài không thể trong một thời gian ngắn do chính quá trình nhận thức của cả cộng đồng, cư dân trong xã hội cũng như chính hạn chế về vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng bao gồm cả kết cấu hạ tầng “cứng” và kết cấu hạ tầng “mềm”. Giải pháp để khắc phục mâu thuẫn trên được nhiều nước lựa chọn là xây dựng khu chế xuất - khu công nghiệp và các hình thức tương tự để qua đó thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi chưa tạo được môi trường đầu tư hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước.
II.QUY CHẾ THÀNH LẬP VÀ QUẢN LÝ KHU CÔNG NGHIỆP.
1. Các điều kiệncần thiết cần được xem xét khi quyết định thành lập khu công nghiệp-khu chế xuất.
Ngày 24-4-1997, Chính phủ đã có Nghị định 36/CP ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao thay thế quy chế khu chế xuất ban hành kèm theo Nghị định số 322-HĐBT ngày 18-10-1991 và quy chế khu công nghiệp ban hành kèm theo Nghị định 192/CP ngày 28-12-1994 của Chính phủ.
Cho đến nay, đã có 30 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trên phạm vi cả nước với tổng diện tích đất xấp xỉ 4700 ha. Việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất này là trên cơ sở dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được phê duyệt theo một hay hai hình thức: doanh nghiệp Việt Nam tự đầu tư hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài để đầu tư.. Trong số các khu công nghiệp đó, cá biệt có một khu công nghiệp do doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng.
Chúng tôi trên mạng xã hội