Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Tài liệu hay
Các tài liệu thuộc danh mục Tiểu luận
Mã tài liệu
Ngày đăng
Kinh tế nhà nước  

Kinh tế nhà nước Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC053 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nền kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của nhà nước, nó tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế, chính trị khách quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế này mà thành phần kinh tế luôn có vai trò vị trí và vận động phát triển theo một xu hướng nhất định. Nhưng xuất phát từ tính quy luật vốn có của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế này mỗi thành phần kinh tế luôn có vai trò vị trí và vận động, phát triển theo một xu hướng nhất định. Nhưng xuất phát từ tính quy luật vốn có của nền kinh tế đều vận động theo hướng đến mục tiêu lợi ích. Nhưng Đảng và Nhà nước luôn khẳng định kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng củng cố, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và hiện nay vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang từng bước được khẳng định. Tuy nhiên hiện nay đang có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc phát triển thành phần kinh tế này: đổi mới, cổ phần sắp xếp, nâng cao hiệuquả. Vì vậy trong đề án này tôi tập trung đi vào việc nghiên cứu quan niệm về kinh tế thị trường, tính tất yếu và nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, vai trò của nó được thể hiện như thế nào, các giải pháp để trong thời gian tới tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở nước ta. Tôi hi vọng nó sẽ góp phần nhỏ để mọi người hiểu hơn về thành phần kinh tế này và góp một phần vào việc phát triển kinh tế nhà nước trở lên vững mạnh.

Sự phát triển của các hình thái kinh tế  

Sự phát triển của các hình thái kinh tế Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC049 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân còn được gọi là giai cấp vô sản, là giai cấp hoàn toàn không có tư liệu sản xuát, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Là giai cấp gắn liền với sản xuất đại công nghiệp và được nền công nghiệp rèn luyện, giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật cao và có điều kiện thuận lợi tập hợp lực lượng, biểu thị sức mạnh của mình. Là giai cấp bị áp bức, bóc lột, có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân kiên quyết đấu tranh chống giai cấp tư sản, có khả năng đoàn kết với quần chúng lao động bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh chung. Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân không ngừng lớn lên về mặt số lượng và chất lượng. Do lợi ích đối lập của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không ngừng đấu tranh chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và chính đảng của giai cấp công nhân. Thông qua chính đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền tiến hành cuộc cải biến cách mạng đối với xã hội không có giai cấp, do đó, giai cấp công nhân tự xoá bỏ với tư cách là một giai cấp.

Những vấn đề lý luận về lạm phát  

Những vấn đề lý luận về lạm phát Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC048 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề cơ bản và lớn trong kinh tế vĩ mô. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp và không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế . Lạm phát là một vấn đề không phải xa lạ và là một đặc diểm của nền kinh tế hàng hoá và ở mỗi thời kì kinh tế với các mức tăng trưởng kinh té khác nhau sẽ có những mức lạm phát phù hợp. Do vậy vấn đề lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế là một đề tài rất hấp dẫn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Việc xác định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà kinh tế. Mục đích chính là phân tích để khẳng định và tiến tới xác lập mối quan hệ định hướng giữa tăng trưởng kinh tế với lạm phát và có thể sử dụng lạm phát là một trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì đương nhiên các giải pháp điều hành vĩ mô đưa ra là nhằm nâng cao lạm phát của nền kinh tế nếu như chúng có quan hệ thuận với nhau và do vậy các giải pháp như cung ứng tiền, phá giá đồng nội tệ… sẽ được xem xét ở mức độ hợp lý. Còn không, các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc các giải pháp vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và yếu tố lạm phát trở thành thứ yếu. Mặc dù vẫn phải duy trì mức độ kiểm soát. Ở nước ta trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát không những là một tiêu thức kinh tế mà còn kiến mang ý nghĩa chính trị nữa.

Phần mềm quản lý tri thức đem đến những ưu thế đặc thù nào cho các tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn cầu  

Phần mềm quản lý tri thức đem đến những ưu thế đặc thù nào cho các tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn cầu Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC047 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Hiện nay, việc quản lý công nghệ thông tin trở thành một điều kiện thiết yếu trong mọi hoạt động của toàn cầu; tại nơi làm vịêc thì qản lý công nghệ thông tin đã trở thành một yếu tố tạo ra lợi thế cạnh tranh. Các công nghệ hiện có và các phương pháp được sử dụng để thúc đẩy thông tin gọi là quản lý tri thức. Còn thông tin lại được hiểu là những tri thức mới làm giàu kho tàng nhận thức cho người nhận tin. Nó được thụ cảm và đánh giá là có ích cho người ra quyết định trong quản trị kinh doanh. Vậy thông tin là những tri thức mới, còn quản lý công nghệ thông tin là quản lý tri thức. Trong nội tại của bất kỳ một công ty nào, công nghệ thông tin đều có thể được sử dụng để tối đa hoá lợi nhuận. Nhiệm vụ như: thư tín điện tử (e-mail) cho phép thông tin nhanh hơn; các cơ sở dữ liệu. được chia sẻ cho phép mọi người có thể tiếp cận tức thời và bình đẳng những thông tin được chuẩn hoá vào bất kỳ thời gian nào. Mạng nội bộ (intranet) cho phép trao đổi đồng bọ và trò chuyện trực tiếp … tổ chức mọi cong việc đó nhằm làm cho công ty có hiệu quả hơn và có khả năng cạnh tranh cao hơn là công việc của nhà quản lý công nghệ thông tin. Muốn biết được phần mềm quản lý tri thức đem đến những ưu thế đặc thù nào cho các tổ chức hoạt động trên phạm vi toàn cầu thì trước hết chúng ta hải hiểu; tri thức là gì, quản lý tri thức là thế nào và tại sao tri thức lại có giá trị.

Quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất và vận dụng quy luật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta  

Quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất và vận dụng quy luật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC045 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Xã hội loài người đã trải qua năm chế độ xã hội: xã hội nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển của loài người là sự đấu tranh thay thế lẫn nhau của các chế độ xã hội, xã hội sau cao hơn xã hội trước. Sự thay thế các hình thái xã hội này là tất yếu do các quy luật kinh tế chi phối. Nghiên cứu triết học, kinh tế chính trị học cũng như nhiều môn khoa học kinh tế khác nhiều người đã có chung nhận xét : qui luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất" là qui luật chi phối toàn bộ hệ thống xã hội từ tước tới nay. Nước ta phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa do đó nghiên cứu qui luật này không những làm chính sách chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta mà còn làm tiền đề cho sự dự đoán xu thế phát triển của thế giới để từ đó đề ra những biện pháp và quyết sách hợp lý.

Khả năng vận dụng mô hình công ty mẹ - Công ty con trong nền kinh tế Việt Nam  

Khả năng vận dụng mô hình công ty mẹ - Công ty con trong nền kinh tế Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC044 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang là thách thức lớn đối với Việt Nam trên con đường đổi mới. Để đối đầu với những thách thức đó,Việt Nam đang nỗ lực tiếp thu và tăng cường đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng sự đòi hỏi của quy luật tích tụ và tập trung sản xuất.... Do vậy, việc tập trung nguồn lực và quản lý nguồn lực một cách có hiệu quả luôn là một nhu cầu cấp thiết đặc biệt là vốn. Một trong những giải pháp được đề cập đến là áp dụng thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con mà trước hết là giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên thông qua mô hình này. Mô hình công ty mẹ - công ty con là một trong những loại hình được áp dụng ngày càng rộng rãi trên thế giới và đó là công cụ để hình thành nên các công ty xuyên quốc gia. Nguyên nhân thực sự là ở khả năng huy động vốn lớn từ xã hội mà vẫn duy trì được quyền kiểm soát, khống chế của công ty mẹ ở các công ty con. Để duy trì tốc độ phát triển cao, Việt Nam đã phải đối mặt với những thách thức về nguồn lực đầu tư cho phát triển. Muốn duy trì được tốc độ phát triển 6 - 7% hàng năm thì vốn đầu tư ước tính lên tới 400 - 500 tỷ USD. Do vậy, việc thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con hiện nay là hết sức cần thiết. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX đã đề ra chủ trương xây dựng một số tập đoàn kinh tế Nhà nước mạnh, đổi mới tổ chức các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội  

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC043 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lý luận hình thái kinh tế – xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử do K.Marx xây dựng nên. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực học. Nhờ có lý luận hính thaí kinh tế – xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học K. Marx đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy qua lý luận hình thái kinh tế – xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học vận hành của xã hội trong mỗi giai đoạn nhất định. Nhưng ngày nay, đứng trước những sự kiện lớn như sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô - ngọn cờ đầu của chủ nghĩa xã hội, lý luận hình thái kinh tế xã hội bị phê phán từ rất nhiều phía sự phê phán không chỉ từ phía đối lập của chủ nghĩa Marx- Lênin mà còn cả một số người đã từng đi theo con đường của chủ nghĩa Marx – Lênin. Nói chung họ cho rằng: lý luận hình thái kinh tế xã hội đã lỗi thời, lạc hậu không thể áp dụng vào điều kiện hiện nay mà phải thay thế bằng một lý luận khác. Trước tình hình đó buộc chúng ta làm rõ thực chất của lý luận hình thái kinh tế xã hội và giá trị về mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất cần thiết ; về thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó rất nhiều vấn đề khó khăn được đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết.

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam  

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC042 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lý luận, hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã được thừa nhận Lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nối chung của xã hội loài người Song, ngày nay. Đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, lý luận đó đang được phê phán từ nhiều phía. Sự phê phán đó không phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy làm rõ thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết . Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau phải tập chung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội , việc vận dụng lý luận đóvào điều kiện Việt Nam; vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.

Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam  

Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC041 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
I.> Tính tất yếu của thời kì quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ Tư Bản chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Thời kì quá độ . Thời kì quá độ là thời kì mà xã hội cũ chuyển sang một xã hội mới – Xã hội – Xã hội Chủ Nghĩa, về mặt kinh tế đây là thời kì bao gồm những mảng, những phần, những bộ phận của Chủ Nghĩa Tư Bản (CNTB) và chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH) xen kẽ nhau tác động nhau, lồng vào nhau. Nghĩa đây là thời kì tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cả thành phần kinh tế TBCN, thành phần kinh tế XHCN, thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ. Cùng tồn tại vừa hợp tác thống nhất với nhau nhưng vừa cạnh tranh gay gắt với nhau. Thời kì quá độ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành lại chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong cơ bản, cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, cả về mặt lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng cả tồn tại Xã Hội và ý thức Xã Hội. Trong thời kì quá độ này chia làm nhiều bước quá độ nhỏ, bao nhiêu bước tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng bước. Nhưng các bước càng lạc hậu đi lên CNXH thì thời kì quá độ càng kéo dài và càng chia làm nhiều bước quá độ nhỏ (hết sức phức tạp và giằng co nhau). 2. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên CNXH. Là một yếu tố khách quan đối với mọi nước đi lên CNXH đây là do đặc điểm của sự ra đời phương thức vô sản Cách Mạng và đặc điểm của cuộc Cách Mạng vô sản quyết định. (Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng khác là khi giành được cách mạng chỉ là bước đầu, chủ yếu là tham gia vào công cuộc xây dựng, và đổi mới đất nước). Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển biện chứng của lịch sử. Lênin đã chỉ rõ :” Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH. Đó là điều không tránh khỏi. Sự quá độ đó còn phù hợp với xu hướng chung của thời đại ngày nay-Thời đại mà nói chung chủ yếu là sự quá độ từ CNTB lên CNXH”. Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là sự lựa chọn có tính lịch sử phù hợp với điều kiện. Đặc điểm tính theo đất nước phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.  Lịch sử đã chứng minh: Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến năm 1930 các phong trào cứu nước của nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến. Tiểu tư sản, tư sản đều bị thất bại. Năm 1930 đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo dân tộc ta đi lên thắng lợi này đến thắng lợi khác và đi đến thắng lợi hoàn toàn. Sự khảo nghiệm đó của lịch sử dân tộc đã khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. - Từ năm 1930 đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã giương cao ngọn cơ Độc Lập Dân Tộc và CNXH. Dưới ngọn cờ ấy. Đảng đã đoàn kết được cả dân tộc. Phát huy cao độ truyền thống bất khuất của dân Tộc. Lãnh đạo nhân dân ta dòng rã suốt gần nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập thống nhất tổ quốc.

Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay  

Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC040 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Mười năm nỗ lực phấn đấu, nhất là 5 năm qua, nhân dân ta đã tạo nên những đổi mới kinh tế quan trọng. Trong khi nhịp độ tăng trưởng nhanh và vượt mức kế hoạch thì cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Và một trong những nguyên nhân để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế là nước ta bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần chính là để giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Không thể có các thành tựu kinh tế như vừa qua nếu không thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Vì thế phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp của bên ngoài là chiến lược đúng đắn.

Tình hình sử dụng nghệ thuật tiêu thụ xuất bản phẩm ở công ty Phát Hành sách Hà Nội hiện nay  

Tình hình sử dụng nghệ thuật tiêu thụ xuất bản phẩm ở công ty Phát Hành sách Hà Nội hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC039 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Kinh doanh xuất bản phẩm là một quá trình đầu tư công sức và tiền của để tổ chức các hoạt động mua bán hàng hoá xuất bản phẩm nhằm mục đích có lợi nhuận liên tục và không ngừng phát triển. Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng. Hiện nay trong kinh doanh xuất bản phẩm có nhiều thành phần, lực lượng tham gia tạo nên một thị trường xuất bản phẩm đa dạng và phong phú. Điều này góp phần đáng kể vào việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhân dân và ra thế giới. Nền kinh tế thị trường đảm bảo sự tồn tại và phát triển cho doanh nghiệp tổ chức kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp tổ chức kinh doanh làm ăn kém hiệu quả sẽ bị đào thải. Do đó để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng phải có một quá trình phấn đấu nỗ lực để tìm ra hướng đi thích hợp cho mình. Quá trình đó là việc nghiên cứu, tìm hiểu phương pháp để tiêu thụ XBP, vì vậy nghệ thuật bán XBP ra đời như một công cụ hữu hiệu hỗ trợ hoạt động tiêu thụ XBP phát triển. Bán XBP là khâu nghiệp vụ cuối cùng nhưng lại tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó việc sử dụng nghệ thuật bán XBP như thế nào để bán được nhanh nhất, nhiều nhất, bán đúng đối tượng nhất là vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp hiện nay.

Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước và vận dụng vào Việt Nam  

Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước và vận dụng vào Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC038 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, thì vấn đề quan trọng nhất là phải cần có vốn. Vốn có hai loại chủ yếu là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển, thì vấn đề thu hút vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là yếu tố vô cùng quan trọng và được nhiều nước quan tâm, trong đó có nước ta. Trong thời đại ngày nay, xu hướng hoà nhập, liên kết giữa các nước trên thế giới ngày càng cao.Do đó trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Nhìn chung, vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước bằng hai con đưòng chính là đường công cộng và đường tư nhân hoặc thương mại. Hình thức đầu tư quôc tế chủ yếu là đầu tư trực tiếp (FDI: Foreign Direct Investment); đầu tư qua thị trường chứng khoán;cho vay của các định chế kinh tế và ngân hàng nước ngoài (vay thương mại) và nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA).

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế  

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC037 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong đời sống hàng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề của kinh tế học vĩ mô. Nó đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng. Lạm phát dã được đề cập rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế . Để triển khai thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, cần phải động viên mọi nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tăng trưởng bền vững và ổn định lạm phát ở mức thấp đó là những mục tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nước. Không có gì đáng ngạc nhiên khi câu hỏi có sự tồn tại và bản chất của mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đã được các nhà kinh tế hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm và trở thành trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về chính sách. Chính vì những tác hại to lớn do lạm phát gây ra cho nền kinh tế mà việc nghiên cứu lạm phát là ọt vấn đề cần thiết và cấp bách đối với nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế thị trường còn non nớt như nền kinh tế ở nước ta. Chúng ta cần phải tìm hiểu xem lạm phát lá gì ? Do đâu mà có lạm phát ? Tại sao người ta lại quan tâm đến lạm phát? Bài viết này sẽ điểm lại một cách có hệ thống các lý thuyết, các bằng chứng thực nghiệm về lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng như đưa ra một số gợi ý về hướng điều tiết vĩ mô của Việt Nam trong thời gian tới.

Những vấn đề cơ bản trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước  

Những vấn đề cơ bản trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC036 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã được đề cập đến lần đầu tiên trong nghị quyết hội nghị lần thứ II- Ban chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 11/1991); trong đó có đoạn viết: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp” Tiếp theo đó, tháng 1/1994 Nghị quyết hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã khẳng định mục đích của cổ phần hoá là “Thu hút thêm vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính chất và mức độ sản xuất kinh doanh, trong đó Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối” Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một trong những giải pháp hữu hiệu của Nhà nước, nhằm huy động vốn, tạo việc làm , nâng cao thu nhập, nâng cao sưc cạnh tranh, tạo điều kiện để người lao động được làm chủ, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực kinh doanh có hiệu quả.

Sự cần thiết khách quan và giải pháp phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN  

Sự cần thiết khách quan và giải pháp phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC034 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoà tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay lầ một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm 1986. Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tế nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa nước thoát khỏi sự trì trệ về phát triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển mạnh hơn. Trong tương lai, có thể nền kinh tế nước ta sẽ theo kịp được nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tế có được là do Đảng và nhà nước ta đã nhận ra rằng sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã chủ chương chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhưng nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý mà là nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhà nước với tư cách là người điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN.

Tính tất yếu khách quan và con đường hình thành công ty mẹ-công ty con ở Việt Nam  

Tính tất yếu khách quan và con đường hình thành công ty mẹ-công ty con ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC033 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 19 các Tập đoàn kinh tế đã nối tiếp nhau ra đời ở các nước tư bản. Đó là một tổ chức tiên tiến đại diện cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuấtvà nền kinh tế xã hội, là các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích kinh tế. Ngày nay nhiều Tập đoàn kinh tế đóng vai trò chi phối và tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Trong những năm qua , ở nước ta , quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp với tính chất , trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cải cách toàn diện các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện lại việc sắp xếp các doanh nghiệp như: cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê các doanh nghiệp Nhà nước. Trong công cuộc cải cách đó, Đảng và Nhà nước ta cũng chủ trương thành lập các TCTy với mục tiêu là hình thành nên những Tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Đối với nước ta, mô hình công ti mẹ-công ti con là một khái niệm mới, một phạm trù mới trong lĩnh vực kinh tế học, tuy trên thế giới khái niệm về Tập đoàn kinh doanh và mô hình tập đoàn theo hình thức công ti mẹ-công ti con đã qua một thời gian phát triển .Trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế mạnh mẽ để tránh khỏi tụt hậu ngày càng xa , Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung .Việc hình thành và phát triển các tổng công ty theo mô hình công ti mẹ-công ty con sẽ phát huy các ngành kinh tế mũi nhọn giúp nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới .

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH-HĐH trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc Tế.  

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH-HĐH trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc Tế. Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC032 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất- kỹ thuật , trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển hoàn thiện. Sự phân công lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật ở các ngành kinh tế then chốt như : Công nghiệp-Nông nghiệp -Dịch vụ chưa hợp lý và vẫn lạc hậu. Vì vậy CNH-HĐH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ thuật, khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung hay cơ cấu ngành kinh tế nói riêng, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đẻ không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân. Từ đó thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát trong sự nghiệp CNH-HĐH của nước ta được Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định tại Đại hội VIII : Xây dựng nước ta trở thành một Nước có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đồi sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giau Nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Do đó nhiệm vụ tất yếu của Đảng và toàn dân ta trong thời điểm hiện nay là: 1. Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thông qua việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và vùng kinh tế hiệu quả, hợp lí theo hướng CNH-HĐH ( là nhiệm vụ trọng tâm) 2. Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN thông qua thực hiện chính sách nền kinh tế nhiều thành phần. 3. Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trong bài tiểu luận này Em tập trung nghiên cứu về chủ đề: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH-HĐH trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc Tế.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay  

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với việc phân tích hệ thống các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC030 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80 của thế kỷ XX , khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này . Trước tình hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986). Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường , nước ta không tránh khỏi những khó khăn . Theo quan đIển triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn . Trong giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung , quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường… Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta .

Tính chất và vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay  

Tính chất và vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC029 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong thời đại ngày nay, Nhà nước nào cũng có vai trò nhất định trong sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt là trong sự nghiệp cải tổ và xây dựng nền kinh tế. Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước với nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần cùng tham gia. Trong điều kiện như vậy thì vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là khách quan, một nhu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường, thể hiện ở việc Nhà điều tiết nền kinh thông qua việc hoạch định chính sách. Vì vậy, nâng cao vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều tiết nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa là vấn đề mang tính thời sự và là đề tài nghiên cứu của nhiều cấp, ngành, nhiều cán bộ và sinh viên. Nhà nước thực hiện tốt vai trò kinh tế của mình đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng với hiệu quả cao và bền vững, tạo tiền đề rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tránh nguy cơ tụt hậu và đuổi kịp các nước kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đây là một vấn đề lớn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, song do kiến thức còn hạn chế, bài bài viết này chỉ nêu lên những nội dung cơ bản và một số thực trạng vai trò của Nhà nước đối với công nghiệp hóa trong những năm qua, đồng thời đưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong thời gian tới. Bài viết đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo hướng dẫn, đồng thời được sự giúp đỡ của Thư viện trường về nhiều tài liệu tham khảo bổ ích. Bài viết này được chia thành 2 chương, bao gồm: Chương 1: "Tính tất yếu khách quan vai trò Nhà nước trong trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Chương 2: Thực trạng về vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH và những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian tới

Lý luận về tiền lương của Mác  

Lý luận về tiền lương của Mác Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC028 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Lý luận về tiền lương đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu bắt đầu là W.Petty. Chính William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết "quy luật sắt về tiền lương". Lý thuyết mức lương tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban đầu của CNTB. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, để buộc công nhân làm việc, giai cấp tư sản phải dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp. Tuy nhiên từ lý luận này ta thấy được là, công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động của mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đó là mầm mống phân tích sự bóc lột. Lý luận về tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền lương của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền lương dưới CNTB đã bị che đậy – tiền lương là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo). Những luận điểm của Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Cho đến nay, thu nhập của người được hưởng lương tăng, mức sống, tiêu dùng tăng, về cơ bản không do chính sách tiền lương đem lại mà do tăng thu nhập ngoài lương, nhờ kinh tế tăng trưởng (tiền lương Nhà nước trả chỉ chiếm một phần ba, thu nhập khác chiếm tới hai phần ba). Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền lương của Mác trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn.Cải cách chính sách tiền lương sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của người lao động, và nên tiến hành cải cách như thế nào để đảm bảo được lợi ích người lao động, đến lợi ích của toàn quốc gia…? Đây là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo người lao động và chuyên gia nghiên cứu. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên mà người viết lựa chọn đề tài này nhằm hiểu rõ hơn về hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam, nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Một số vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  

Một số vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC023 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng , bằng sự nỗ lực sáng tạo của quần chúng , các nghành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá, bộ mặt kinh tế-xã hội thay da đổi thịt từng ngày, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ nét. Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi thuộc về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với mong muốn tìm hiểu các vấn đề khi xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: vì sao chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường, mục đích phát triển kinh tế thị trường là gì, những đặc điểm và thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta...

Lý luận về địa tô của CácMac và sự vận dụng vào chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay  

Lý luận về địa tô của CácMac và sự vận dụng vào chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC027 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước trải qua nhiều giai đoạn ,nhiều thời kì ,mỗi thời kì tồn tại những hình thức tư hữu khác nhau .Và cho đến ngày nay, khi đất nước đang trên đà phát triển để trở thành con rồng của châu á, thì những quan hệ sản xuất đã dần được hoàn thiện. Nhưng để có những quan hệ sản xuất và nền kinh tế như ngày nay là do Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa , phát huy những gì đã có mà chính tư tưởng của Mác đã làm kim chỉ nam dẫn đường cho những bước phát triển . Là những sinh viên kinh tế , những người sẽ góp phần xây dựng kinh tế trong tương lai,chúng ta thường quan tâm đến những vấn đề của kinh tế phát triển như cổ phần hoá doanh nghiệp,như kinh tế thị trường ... mà mấy ai quan tâm đến vấn đề thuế đất. Mới chỉ nghe về đất thì ta tưởng chừng như đây là vấn đề của nông nghiệp nhưng thực tế hoàn toàn khác đây là một trong những vấn đề quan trọng trong dự án phát triển kinh tế sau này,thuê đất ở đâu để kinh doanh, tiền thuê đất như thế nào, hay khi kinh doanh nông nghiệp thì tiền thuê đất là bao nhiêu , nghĩa vụ như thế nào ? chúng ta phải tìm hiểu.

Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta  

Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC025 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Bất kì một quốc gia nào muốn phát triển, đạt được trình độ một nước phát triển đều phải trải qua nấc thang có tính tất yếu lịch sử. Đó là công nghiệp hoá. Trên thế giới đã có nhiều nước tiến hành thành công công nghiệp hoá và hiện nay cũng còn nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hoá. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử loài người, công nghiệp hoá ở những nước khác nhau có sự khác nhau về mô hình, về thời gian thực hiện và do đó có sự khác nhau về ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội. Nước ta bắt đầu công nghiệp hoá từ năm 1960 theo đường lối do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đề ra. Đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp tục. Nhưng hoàn cảnh, điều kiện quốc tế và trong nước, trình độ phát triển kinh tế nước ta hiện nay khác nhiều so với năm 1960. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn phải giải quyết như: Công nghiệp hoá có còn là tất yếu khách quan nữa không? Đánh giá như thế nào về thực trạng công nghiệp hoá ở nước ta những năm qua? Mục tiêu, mô hình, nội dung công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như thế nào? Sự phát triển của nền kinh tế trong hơn mười năm kể từ khi đổi mới đến nay đã thu được nhiều kết quả đáng kể.Trong đó phải kể đến vai trò rất quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến lược phát triển kinh tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, hạn chế tối thiểu những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của nhà nước để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn. Đây là điểm khác biệt giữa cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta và các nước khác. Mặc dù Nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong sự nghiệp này, nhưng không phải là không có hạn chế. Đó là sự cồng kềnh của bộ máy, chưa xóa bỏ được thói quen của cơ chế cũ, chưa thích nghi với cơ chế mới nên hiệu quả chưa cao.

Vai trò, thực trạng của kinh tế tư bản tư nhân, đánh giá kinh tế tư bản tư nhân và một số phương hướng giải pháp.  

Vai trò, thực trạng của kinh tế tư bản tư nhân, đánh giá kinh tế tư bản tư nhân và một số phương hướng giải pháp. Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC024 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nềnkinh tế Việt Nam. Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy đã có một thời kỳ bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường , Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân. Tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế non trẻ của nước ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều vấn đề bất cập trong xã hôi, trong chủ trương chính sách và tổ chức quản lý đang là trở ngại cho sự phát triển của thành phần kinh tế này. Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH, HĐH phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn với sự giải phóng tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, còn kinh tế tư bản tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa qua mặc dù đã có bước phát triển tốt, kinh tế tư bản tư nhân Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một vai trò tương xứng với tiềm năng của nó.

Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại  

Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC021 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
hủ nghĩa tư bản với tư cách là một phương thức sản xuất xã hội từ khi ra đời cho đến nay, nó đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Mỗ giai đoạn phát triển nó đều dựa trên nền tảng của giai đoạn trước nó, nó vừa kế thừa của giai đoạn trước, vừa là sự vươn lên hoặc phủ định lại giai đoạn trước. Trong quá trình phát triển đó ta đã thấy rằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu khách quan, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Bởi vì, xã hội mới mà chúng ta muốn xây dựng trong chủ nghĩa tư bản là một nhà nước tư sản hiện đại – phải tính đến một cách đầy đủ những đặc điểm mới về số lượng và chất lượng của sự phát triển xã hội hoặc nói rộng hơn của nền văn minh tri thức, phát triển cao nhất về con người tri thức, của những khoa học kỹ thuật hiện đại. Nhưng để đáp ứng và đièu khiển nền kinh tế xã hội mà khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng phát triển, tình hình chính trị thế giới ngày càng phức tạp, bất ổn của chủ nghĩa tư bản hiện đại đó thì nhà nước tư sản hiện đại phải tự đièu chỉnh vai trò của mình trong sự điều tiết nền kinh tế. Sự điều tiết caủ nhà nước tư sản hiện đại đó phải dựa trên những mối tương quan khách quan giữa lực sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự điều tiết kinh tế đó cũng chính là nội dung của Đề án Kinh tế chính trị này.

Qua lịch sử phát triển của 3 phương thức sản xuất trước CNTB, chứng minh quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất  

Qua lịch sử phát triển của 3 phương thức sản xuất trước CNTB, chứng minh quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC020 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Nhìn vào lịch sử xã hội loài người, ai cũng thấy xã hội mỗi ngày một tiến bộ từ thấp tới cao, từ thô sơ , đơn giản đến đa dạng và phức tạp. Nhưng muốn hiểu nguồn gốc phát triển của xã hội thì chúng ta phải tìm đến căn nguyên kinh tế của nó; nghĩa là phải tìm xem xã hội tiến hành sản xuất như thế nào và quá trình phát triển của nó theo dòng lịch sử ra sao? Để biết được điều đó chúng ta hãy nghiên cứu sơ qua quan điểm của chủ nghĩa Mác- Anghen mà ở đây chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa QHSX và LLSX. Kể từ khi con người mới xuất hiện trên hành tinh đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên thuỷ; chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến; tu bản chủ nghĩa; xã hội chủ nghĩa. Tư duy, nhận thức của loài người không dừng lại một chỗ mà theo dòng thời gian nó phát triển ngày càng hoàn thiện hơn, từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển LLSX cũng như cơ sở sản xuất. Từ sản xuất bằng săn bắt hái lượm, trình độ KHKT lạc hậu thì ngày nay khoa học đã đạt tới đỉnh cao trí tuệ nhân loại và trong tương lai sẽ còn hơn thế nữa. Với sự phân tích của Mac-Anghen chúng ta thấy đươc sự phát triển ấy chính là do những tác động qua lại biện chứng giữa LLSX và QHSX được khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa LLSX và QHSX. Với ba trường phái của triết học: Chủ nghĩa duy vật; chủ nghĩa duy tâm; và trường phái nhị nguyên luân tuy có những quan điểm khác nhau nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Không chỉ trên phương diện triết học mà cả chính trị kinh tế học và các môn khoa học khác, dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức dược hay không thì nhận thức của Mac-Anghen về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.

Con đường lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam  

Con đường lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC019 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm và giành được độc lập, đất nước ta tiếp tục con đường mình đã lựa chọn đó là con đường đi lên CNXH, chúng ta đang vững bước tiến vào thế kỷ mới với những thách thức và khó khăn mới với con đường mà chúng ta đã chọn, nhưng không vì thế mà ta chịu lùi bước,chịu khuất phục trước khó khăn. Chúng ta sẽ vẫn tiếp tục đi theo con đường mà chúng ta đã lựa chọn, chúng ta đề ra nhiệm vụ để hoàn thành nó và những phương hướng để dẫn chúng ta tới thắng lợi trên con đường mà chúng ta đã chon . Tuy nhiên để tiến đến được CNXH chúng ta còn phải trải qua nhiều chặng đường đầy gian lao và thử thách , đó là bước quá độ để Tổ quốc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc hùng mạnh trên thế giới , đó là bước quá độ để chúng ta tiến đến chế độ mới , chế độ Cộng sản chủ nghĩa , chế độ mà mọi người đều được hưởng hạnh phúc , ấm no và công bằng .Tuy nhiên từ giờ đến đó chúng ta còn bao nhiêu công việc phải làm , bao nhiệm vụ phải hoàn tất. Con đường mà chúng ta đang đi đầy chông gai, đòi hỏi chúng ta phải có được phương hướng đúng đắn.Phải nêu được rõ nhiệm vụ cơ bản mà chúng ta cần làm . Để có thể làm được điều đó , chúng ta cần có nhận thức đúng đắn về CNXH và con đường quá độ để tiến lên CNXH . Và để có thể làm được điều đó thì tất cả chúng ta cùng phải đồng long, chung sức vun đắp nó .

Thưc trạng vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta thời gian qua và những giải pháp đề ra nhằm vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Viêt Nam  

Thưc trạng vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta thời gian qua và những giải pháp đề ra nhằm vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Viêt Nam Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC017 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì nước Việt Nam ta còn là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển, nghèo nàn và lạc hậu. Cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển... hơn nữa nạn thất nghiệp, tham ô lạm phạt, ô nhiễm môi trường... vẫn luôn là một trong những vấn đề bức xúc chưa hạn chế được. Tuy vậy ta cũng không thể một sớm một chiều mà có thể khắc phục được những yếu điểm đó mà ta phải dần dần khắc phục. Song hành với nó ta phải liên tục vận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và kinh tế để phát triển đất nước. Đất nước Việt Nam ta đang đứng trước những khó khăn lớn về mọi mặt nhất là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cần phải áp dụng những biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả nhất. Chính vì vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển kinh tế là rất quan trọng. Chúng ta cần phải thật linh hoạt trong từng vấn đề, từng lĩnh vực của sự phát triển kinh tế. Tiểu luận được trình bày với nội dung chính là việc khẳng định lại một lần nữa tính tất yếu trong quản lý và phát triển kinh tế.

Khoa học và công nghệ là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá ở nước ta  

Khoa học và công nghệ là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC014 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong thời đại ngày nay, khi nền văn minh nông nghiệp dần dần nhường chỗ cho nền văn minh công nghiệp thì tương ứng với nó thuật ngữ ''công nghiệp hoá - hiện đại hoá" cũng ít được sử dụng mà thay thế vào đó là các thuật ngữ khoa học mang tính chất hiện đại ,phù hợp với xu thế của một thời đại mới "thời đại tri thức" như "tăng trưởng", "phát triển"," cất cánh theo lối hoá rồng"…Mặc dù vậy,chúng ta không thể phủ nhận công nghiệp hoá- hiện đại hoá luôn luôn là vấn đề hàng đầu trong các lí luận về sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới .Thật vậy ,lịch sử phát triển của nhân loại trong vài trăm năm trước đó đã cho thấy con đường mà các nước chậm tiến cần phải đi theo,không thể là cái gì khác ngoài việc biến đổi nền kinh tế theo cơ cấu hợp lý ,phát triển năng động dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại .Để đạt được mục đích đó,điều tất yếu là phải đưa đất nước đi lên con đường công nghiệp hoá- hiên đại hoá bởi đó là phương thức duy nhất để phát triển kinh tế thế giới, và bất kì một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá chậm , quá lạc hậu so với bước đi của thế giới.Có thể coi đó là quy luật Việt Nam không thể đứng ngoài. Chúng ta đều biết ,công nghiệp hoá được coi là sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVII, còn hiện đại hoá là sản phẩm tất yếu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật giữa thế kỷ XX. Ngày nay, trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá được xem là nấc thang đánh dấu trình độ phát triển mới của nền văn minh nhân loại. Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu về khoa học cũng như nhiều lĩnh vực khác trong đời sống kinh tế xã hội .Chẳng hạn, việc sử dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm giảm sự phụ thuộc của con người vào nguồn năng lượng khoáng sản, việc chế tạo ra các tên lửa với công suất cực lớn dùng nhiên liệu hoá học, hỗn hợp ở dạng lỏng hoặc rắn. Với hệ thống động lực mới này, con người đã tạo ra được tốc độ vũ trụ cấp một (7,9km/s),phóngvệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất (năm 1957), tốc độ vũ trụ cấp hai (11,2 km/s) phóng các tàu vũ trụ thám hiểm các hành tinh thuộc hệ mặt trời như mặt trăng, Sao hoả, Sao kim…(năm 1959) và đặc biệt là đưa con người đặt chân lên mặt trăng (năm 1981) mở ra kỷ nguyên chiến lược chinh phục vũ trụ. Sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên không tái sinh được mà cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới có tính năng ưu việt hơn và tái sinh được…Do đó vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trên con đường thực hiện công nghiệp hoá- hiên đại hoá là ở chỗ cần nắm bắt xu thế phát triển tất yếu, khách quan của thời đại, khai thác tối đa những thời cơ, thuận lợi và hạn chế đến mức thấp nhất mọi nguy cơ, bất lợi để thực hiện thành công nghiệp sự nghiệp đó. Đối vớiViệt Nam hiện nay, công nghiệp hoá- hiên đại hoá không chỉ là quá trình mang tính tất yếu mà đó còn là một đòi hỏi bức thiết. Đứng trước thực trạng đất nước từ một nền kimh tế tiểu nông đang phấn đấu vươn lên đạt đến mục tiêu:" Dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ văn minh" lại vốn là một nước nghèo bị chiến tranh tàn phá nhiều năm, tình trạnh khủng khoảng kinh tế xã hội vẫn chưa chấm dứt, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, bội chi ngân sách lớn, lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng tăng (riêng ở thành thị chiếm tới 7%), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu người thấp nhất thế giới: 220$ (tháng9/1993) thấp hơn cả Lào, Băngladesh, chỉ bằng 1/9 Thái Lan, bằng 1/4 của Malaixia, bằng 1/45 của Đài Loan…Gắn liền với nền kinh tế đó lại là lối làm ăn tản mạn, tuỳ tiện của sản xuất nhỏ; những thói quen cũ của thời kì bao cấp trong sản xuất, kinh doanh vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, ảnh hưởng không nhỏ tới sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước trong quá trình toà cầu hoá. Vì vậy công nghiệp hoá- hiên đại hoá còn là quy luật tất yếu của quá trình phát triển kinh tế-xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân và cả dân tộc.

Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ  

Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ Tài liệu được cập nhật ngày: 05-05-2012
Soạn: REG TAILLIEU KC013 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Công cuộc xây dựng xã hội mới phải được tiến hành toàn diện trên các mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và những con người của xã hội. Công nghiệp hóa chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ không giống nhau. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thự hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay  

Những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Tài liệu được cập nhật ngày: 14-05-2011
Soạn: REG TAILLIEU KC007 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Sau 1986 nước ta đã chuyển mô hình kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thể hiện sự đổi mới về tư duy và ngày càng hoàn thiện cả về lí luận cũng như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây cũng là một quá trình về sự nhận thức đúng hơn các quy luật khách quan, chuyển từ một nền kinh tế mang nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần, khôi phục các thị trường để từ đó các quy luật thị trường phát huy tác dụng điều tiết hành vi các tác nhân trong nền kinh tế thay cho phương pháp quản lí bằng các công cụ kế hoạch hoá trực tiếp mang tính pháp lệnh, xoá bỏ bao cấp tràn lan của nhà nước để các doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trong sản xuất kinh doanh. Nhà nướcthực hiện quản lí nền kinh tế thông qua pháp luật và điều tiết thông qua các chính sách và các công cụ kinh tế vỉ mô

CNH-HĐH và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta  

CNH-HĐH và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Tài liệu được cập nhật ngày: 14-05-2011
Soạn: REG TAILLIEU KC001 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Từ đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là “Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng“. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm tăng trưởng nhanh ổn định, nước ta phải xác định rõ cơ cấu kinh tế hợp lý, trang thiết bị ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Mặt khác, nước ta là nước đang phát triển vì vậy quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá để từ đó hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của ta trước đây do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân nóng vội chúng ta đã mắc phải một số sai lầm khuyết điểm mà đại hội Đảng lần thứ VI và VII đã vạch ra.

Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông  

Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông Tài liệu được cập nhật ngày: 14-05-2011
Soạn: REG TAILLIEU KC005 Gửi 8077 (Giá 500đ/ 1SMS) để tải tài liệu này
Trong suốt chiều dài của nước ta – Việt Nam đã trải qua các Phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao : “công xã nguyên thuỷ, Phong kiến, phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa”. Những Phương thức sản xuất đó luôn luôn vận động và có xu hướng bị đào thải, trong mỗi giai đoạn phát triển của nước ta và dẫn tới sự ra đời một Phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.Hiện nay khi đất nước bước vào cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đất nước ta đang từng ngày từng giờ bắt kịp với nhịp độ của Khu vực và thế giới. Nhưng dư âm của Phương thức sản xuất phong kiến vẫn còn tồn tại và đang hiện hữu trong các Thành phần mà đặc biệt là kinh tế Nhà nước. Đã và đang làm cản trở và kìm hãm sự phát triển của Thành phần Kinh tế đó nói riêng và nền Kinh tế Nhà nước nói chung.bởi vậy trước tình hình đó bắt buộc bất kỳ thành phần Kinh tế nào đều phải vận động không ngừng để tồn tại và có đủ sức cạnh tranh , nhất là khi Việt Nam đang ra nhập khối mậu dịch tự do APTA hiện nay

  Trang trước  1 2 3 4 5 6 7 8
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)