Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA311 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

WTO và những vấn đề Việt Nam cần giải quyết để trở thành thành viên của WTO

Toàn cầu hoá là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất ngày càng được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của khoa học công nghệ đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau dẫn tới sự hình thành mạng lưới toàn cầu, trước tình hình đó tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng mở cửa, hội nhập.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
1922 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 23-06-2012 04:38:17 PM
Mã Tài liệu
DA311
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ WTO
 
I. HỆ THỐNG WTO VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TOÀN CẦU
1.1. Lịch sử thành lập AGTT:
Trong những năm ngay sau Đại chiến thế giới thứ hai các nước đã có những cố gắng quan trọng ban đầu để thông qua các quy tắc điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế.
Những cố gắng này đã dẫn đến việc thông qua Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (mà sau này thường được gọi là AGTT) vào năm 1948. Các quy tắc của AGTT áp dụng cho thương mại quốc tế về hàng hóa. Qua các năm sau, văn bản của AGTT đã được sửa đổi để bao gồm thêm nhiều điều khoản mới, đặc biệt để xử lý các vấn đề vướng mắc trong thương mại của các nước đang phát triển. Ngoài ra nhiều hiệp định kèm theo chi tiết hóa một số điều khoản chính của AGTT cũng đã được thông qua.
1.2. Các cuộc đàm phán thương mại của vòng đàm phán Urugoay
Các quy tắc của AGTT và các hiệp định kèm theo sau này đã được sửa đổi thêm và cập nhật để đáp ứng các điều kiện đang thay đổi của thương mại quốc tế trong vòng đàm phán thương mại Urugoay được tổ chức từ 1986 đến 1994. Văn bản của AGTT, cùng các quyết định thông qua trong khuôn khổ AGTT trong các năm sau đó và các văn kiện giải thích được thiết lập trong vùng đàm phán Urugoay, về sau được gọi là AGTT  1994. Các Hiệp định riêng rẽ cũng đã được thông qua cho các lĩnh vực như nông nghiệp, hàng dệt, trợ cấp, chống bán phá giá, biện pháp tự vệ và các vấn đề khác, cùng với AGTT 1994, chúng tạo thành các văn kiện cấu thành các hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa. Vòng đàm phán Urugoay cũng đã dẫn đến việc thông qua các quy tắc mới điều tiết thương mại dịch vụ và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở  hữu trí tuệ.
Một trong những thành tựu khác nữa của vòng đàm phán Urugoay là việc thành lập WTO, AGTT, khuôn khổ các cuộc đàm phán này, đã không còn là một tổ chức riêng biệt nữa mà được nhập vào WTO.
1.3. Hệ thống WTO
Hệ thống WTO hình thành từ vòng đàm phán Urugoay giờ đây bao gồm các hiệp định chính sau đây.
* Các hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa bao gồm cả Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (AGTT 1994) và các Hiệp định kèm theo.
* Hiệp định chung về mục tiêu dịch vụ (AGTT)
* Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
WTO chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các Hiệp định này. Tổ chức này cũng đóng vai trò là diễn đàn đàm phán giữa các nước nhằm tự do hóa hơn nữa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Nó cũng đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Bất cứ nước thành viên nào cho rằng thương mại của mình bị ảnh hưởng bất lợi vì một nước khác không tuân thủ các quy tắc, nếu không đi đến một giải pháp thỏa đáng thông qua tham vấn song phương, có thể đưa ra WTO để giải quyết.
Mọi vấn đề quan trọng cuộc thẩm quyền của WTO được quyết định tại Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên. Hội nghị hai năm họp ít nhất 1 lần.
1.4. WTO và kinh tế toàn cầu
Hệ thống tồn tại trước WTO, cụ thể là AGTT, trước đây đôi khi được coi là một câu lạc bộ của những người giàu vì người ta có cảm giác rằng nhiệm vụ của nó trước hết là để phục vụ cho lợi ích của các nước phát triển giàu có. Vào thời điểm khởi động vòng đàm phán thương mại Urugoay (1986), chỉ có một nhóm nhỏ các nước đang phát triển tỏ ra quan tâm đến công việc của AGTT thông qua việc đặt các phái đoàn đại diện thường trú ở Giơnevơ. Tuy vậy, tình hình đã thay đổi cơ bản sau khi vòng đàm phán được khởi động. Vào thời gian vòng đàm phán kết thúc và AGTT chuyển đổi thành tổ chức thương mại thế giới, ngày càng nhiều quốc gia đang phát triển và đang tham gia vào cuộc đàm phán và thảo luận, đa phần các nước này đã thiết lập các phái đoàn đại diện thường trú tại Giơnevơ. Ngoài ra, tiếp theo sự sụp đổ của khối cộng sản, nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi đã bắt đầu xin gia nhập WTO. Hiện tại 134 nước là thành viên của WTO. Ngoài ra, 30 nước đang phát triển và có kinh doanh chuyển đổi đang đàm phán xin gia nhập.
Điều gì đã dẫn đến thay đổi về thái độ đối với tư cách thành viên WTO và tại sao các nước lại tỏ ra quan tâm hơn đến hệ thống thương mại dựa trên qui tắc xuất hiện sau vòng đàm phán Urugoay như vậy? có 3 lý do chính sau:
Lý do trước hết liên quan đến tốc độ toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới thông qua thế giới quốc tế và luồng lưu chuyển vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những sự thay đổi mang tính cách mạng diễn ra trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc ngày nay thậm chí đã giúp cả các nhà sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển có thể tìm kiếm tt cho các sản phẩm của mình ở những nước cách xa hàng nghìn dặm. Như một số nhà quan sát nhận xét, các phương tiện vận tải hàng hóa đã biến toàn bộ thế giới thành một "làng toàn cầu".
Lý do thứ hai là quá trình toàn cầu hóa này đã làm tăng sự lệ thuộc của các nước vào thương mại quốc tế lại càng được đẩy nhanh hơn nữa do việc chuyển đổi các chính sách kinh tế, thương mại được ghi nhận ở hầu hết các nước. Sự sụp đổ của khối cộng sản đã dẫn tới việc áp dụng dần dần các chính sách mang định hướng thị trường ở hầu hết các nước trước đây nhằm kiểm soát nền sản xuất và thương mại quốc tế. Những nước này, trước đây chủ yếu buôn bán với nhau, nay đang càng ngày tăng cường buôn bán rộng rãi hơn với thế giới.
Nhiều nước đang phát triển đã từ bỏ chính sách thay thế nhập khẩu và giờ đây đang theo đuổi các chính sách hướng về xã hội, theo các chính sách đó các nước này tìm cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng các xã hội ngày càng nhiều các sản phẩm của mình.
Thứ ba, là những chính sách thương mại tự do và thông thoáng và các biện pháp các nước đang áp dụng để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài đã khích lệ các công ty đã quốc gia tìm mua linh kiện và các sản phẩm trung gian từ các nước có giá thành thấp hơn và thiết lập và cơ sở sản xuất ở nước đó. Do vậy, các sản phẩm có trên thị trường hiện nay dù đó là các sản phẩm tiêu dùng như quần áo may sẵn, hay các sản phẩm tiêu dùng lâu bền như tủ lạnh và điều hòa không khí, hay cả hàng tư liệu sản xuất, ngày càng được sản xuất , ngày càng được sản xuất thông qua các công đoạn thực hiện không chỉ ở phạm vi một quốc gia, chứng cứ cụ thể của toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tính lệ thuộc ngày càng tăng của các nước vào ngoại thương đã được đưa ra trong một quảng cáo gần đây của một công ty đa quốc gia chuyên sản xuất đồ điện gia dụng; doanh nghiệp này tự hào tuyên bố là sản phẩm của họ được chế tạo từ các cấu kiện sản xuất ở năm đến sáu quốc gia khác nhau.
Sự lệ thuộc ngày càng tăng này vào ngoại thương, dù là nhà xuất khẩu hay nhập khẩu của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đã làm cho các Chính phủ và các doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của hệ thống thương mại đa biên trong việc bảo vệ các lợi ích thương mại của họ. Hệ thống dựa trên quy tắc này đảm bảo cho sản phẩm của họ tiếp cận thị trường nước ngoài sẽ không đột nhiên bị gián đoạn bởi các biện pháp của các Chính phủ như tang thuế nhập khẩu hay áp đặt các quy định cấm nhập hay hạn chế nhập khẩu. Hệ thống này tạo điều kiện cho hàng hóa tiếp cận thị trường nước ngoài ổn định và an toàn làm cho các doanh nghiệp có thể đặt kế hoạch và phát triển sản xuất xuất khẩu mà không phải lo sợ sẽ mất thị trường nước ngoài do các hàng đóng hạn chế của các chi phí. Ngoài ra, điều còn ít người biết đến là hệ thống này còn tạo những quyền nhất định cho các doanh nghiệp. Hầu hết những quyền này là đối với Chính phủ nước mình, một số quyền của họ có thể sử dụng đối với các Chính phủ nước ngoài.
Vì vậy, khuôn khổ các quyền và nghĩa vụ mà hệ thống WTO đã tạo ra đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại trong bối cảnh kinh tế thế giới đang nhanh chóng toàn cầu hóa.
Khả năng của các Chính phủ và các doanh nghiệp tận dụng lợi ích của hệ thống này tùy thuộc rất lớn và kiến thức và hiểu biết về các quy tắc của hệ thống và về những thuận lợi và những thách thức mà hệ thống này tạo ra.
1.5. Mục tiêu và nguyên tắc WTO
* Mục tiêu cơ bản của GATT, tổ chức đề ra các nguyên tắc đa phương về thương mại hàng hóa là nhằm để tạo ra một hệ thống thương mại tự do và thông thoáng nhờ đó các doanh nghiệp từ các nước thành viên có thể buôn bán với nhau trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Mặc dù các quy tắc chi tiết của GATT và các hiệp định kèm theo xem có vẻ phức tạp và các thuật ngữ pháp lý của chúng thường khó hiểu, chúng thường được dựa trên một số ít nguyên tắc và quy tắc đơn giản. Trong thực tế khuôn khổ của GATT được dựa trên bốn quy tắc cơ bản.
- Bảo hộ ngành sản xuất trong nước thông qua thuế quan
Mặc dù GATT được tạo ra là nhằm để dần dần tự do hóa thương mại, GATT thừa nhận rằng các nước thành viên có thể sẽ phải bảo vệ sản xuất trong nước chống lại cạnh tranh nước ngoài. Tuy vậy GATT yêu cầu các nước tiến hành việc bảo hộ đó thông qua hệ thống thuế quan. Việc sử dụng các biện pháp hạn chế định lượng đều bị cấm trừ trong một số trường hợp hạn chế.
- Ràng buộc thuế quan
Các nước đều được thúc giục cắt giảm, và ở đâu có thể, thì loại bỏ bảo hộ các rào cản thương mại khác trong đàm phán thương mại đa biên. Thuế quan được cắt giảm như vậy bị buộc không được tăng lên nữa bằng cách bị liệt kê vào trong danh mục cam kết quốc gia của mỗi nước. Các danh mục này là một bộ phận không tách rời hệ thống pháp lý của GATT.
- Đãi ngộ tối huệ quốc
Quy tắc quan trọng này của GAT đặt ra nguyên tắc không phân biệt đối xử. Quy tắc này đòi hỏi là thuế quan và cách quy định khác sẽ được áp  dụng đối với hàng hóa nhập khẩu hay xuất khẩu mà không được phân biệt đối xử giữa các nước. Như vậy quy tắc này không để cho một nước đánh thuế quan vào hàng hóa nhập khẩu từ một nước này với thuế suất cao hơn thuế suất được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác. Tuy vậy, có những ngoại lệ đối với quy tắc này. Thương mại giữa các nước thành viên của các thỏa thuận thương mại khu vực, được hưởng thuế suất ưu đãi hay được miễn thuế, là một ngoại lệ. Một ngoại lệ khác tạo ra qua hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập, theo hệ thống này, các nước phát triển áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc miễn thuế cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước đang phát triển, nhưng lại áp dụng thuế suất MFN cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác.
- Quy tắc đãi ngộ quốc gia:
Trong khi quy tắc MFN cấm các nước phân biệt đối xử đối với hàng hóa có xuất xứ từ các nước khác nhau, thì quy tắc đãi ngộ quốc gia lại cấm các nước phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nhập khẩu và các sản phẩm được tự sản xuất trong nước cả trong việc đánh các loại thuế nội địa áp dụng các quy định trong nước.
Như vậy quy tắc này không để cho một nước, khi một sản phẩm đã vào thị trường nước đó sau khi đã trả thuế nhập khẩu, được phép đánh một loại thuế nội địa. Ví dụ như thuế doanh thu hay thuế giá trị gia  tăng (VAT) với mức thuế cao hơn mức thuế đánh vào một sản phẩm có xuất xứ của chính nước đó.
* Các quy tắc áp dụng chung
Bốn quy tắc cơ bản được miêu tả ở trên được bổ sung thêm bằng các quy tắc áp dụng chung để điều tiết hàng hóa thâm nhập vào lãnh thổ hải quan của một nước nhập khẩu. Những quy tắc này bao gồm những quy tắc sau mà các nước phải tuân thủ:
- Trong việc xác định trị giá chịu thuế của hàng hóa nhập khẩu thì thuế quan được thu trên cơ sở đánh theo giá trị hàng hóa.
Trong việc áp dụng các tiêu chuẩn sản phẩm bắt buộc và quy định về vệ sinh dịch tễ với hàng hóa nhập khẩu.
- Trong việc cấp giấy phép nhập khẩu
* Các quy tắc khác:
Việc trợ cấp của Chính phủ
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA311 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)