Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu KC161 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Vai trò của thành phần kinh tế nhà nuớc ở Việt Nam

Thế kỷ 21 đang diễn ra trước mắt chúng ta với nhiều thách thức và cơ hội, đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với kinh tế nhà nước ta - một thành phần kinh tế chủ đạo nói riêng. Từ năm 1986 đến nay, Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng đều xác định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tuy nhiên quan điểm đó được xác định theo tư duy mới. Đặc biệt trong thời kì đổi mới ngày nay, đứng trước cơn gió hội nhập của khu vực và thế giới thì việc xác định chỗ đứng của TPKT này đang trở thành vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng và cấp bách.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2011 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 06-05-2012 06:31:05 PM
Mã Tài liệu
KC161
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
NỘI DUNG
I-QUAN NIỆM VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam xác định nước ta hiện nay dựa trên 3 hình thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nên 6 thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp, đó là: Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế mà vốn và TLSX thuộc sở hữu nhà nước; Bao  gồm các doanh nghiệp Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như; đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ, ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận quan trọng  nhất của kinh tế Nhà nước, giữ những vị trí then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, nêu cao gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật.

Phân loại doanh nghiệp Nhà nước

+Các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhằm đảm bảo phúc lợi xã hội như các linh vực sản xuất phục vụ cho quốc phòng, an ninh, y tế, giáo dục.
+Các doanh nghiệp kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. đóng vai trò quan trọng trọng góp phần làm tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chú ý phân biệt kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước. Còn kinh tế nhà nước là đặc trưng của một loại hình sở hữu.
Con đường hình thành kinh tế Nhà nước:
Nhà nước đầu tư xây dựng mới các doanh nghiệp nhà nước. Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư bản tư nhân hoặc  góp vốn cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư nhân.
*Phân biệt kinh tế Nhà nước  ở Việt nam với kinh tế Nhà nước của CNTB độc quyền.
Việt nam đang quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, nên tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giẽ vai trò chủ đạo, là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Nhà nước chuyên chính vô sản đại diện cho nhân dân quản lý nó. Nhà nước ta là nhà nước của dân, vì dân và do dân.
Còn dưới CNTB độc quyền, nền kinh tế chịu sự thống trị của các tổ chức độc quyền,  phương thức sản xuất TBCN dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Nhà nước là nhà nước tư sản, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, bản chất của nhà nước tư sản vẫn là bọc lột lao động làm thuê
II-VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Thành phần kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ đạo  trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để  Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong thành phần kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp của nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành luật pháp.

Biểu hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

          KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên các mặt:
          - Là đòn bày kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trưởng quan trọng và giải quyết những vấn đề xã hội. Nó chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn, then chốt của nền kinh tế, có khả năng chi phối môi trường xã hội và đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế.
          - KTNN góp phần hết sức quan trọng vào việctạo ra sản phẩm cho xã hội và nguồn thu ngân sách, tạo ra nguồn lực đáng kể trong tay nhà nước để điều tiết quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, KTNN còn đảm bảo sức sản xuất và hoạt động của nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ xuất, nhập khẩu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tiêu cực trong đời sống.
          Bằng nhiều hình thức hỗ trợ, giúp đỡ các TPKT khác cùng phát triển theo định hướng XHCN, tính chất này của KTNN xuất phát từ vị trí  chiến lược và khả năng chi phối đến môi trường kinh tế - xã hội. Có những ngành có vai trò quan trọng như là những yếu tố đảm bảo, tác nhân kích thích cho sự phát triển các ngành khác như giao thông vận tải, thông tin liên lạc… song do tính chất của những ngành này mà các thành phần kinh tế khác hoặc là không đủ vốn, hoặc là gặp khó khăn về quản lý trong thu hồi vốn, thu lợi nhuận nên không đầu tư. Để khuyến khích mọi TPKT đầu tư sản xuất khu vực KTNN đứng ra tổ chức xây dựng những cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tạo môi trường hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ở đây vai trò chủ đạo của KTNN được thể hiện như là yếu tố mở đường, kích thích sự phát triển toàn bộ theo định hướng nhất định.
Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết cơ chế thị trường. KTNN không những định hướng sản xuất, mà còn chi phối các chính sách xã hội kiềm chế được khuynh hướng độc quyền và tự phát của kinh tế thị trường, bởi lẽ trong kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau vừa có những tích cực đồng thời có cả những hạn chế tiêu cực, do đó cần phải có một "bàn tay" can thiệp chỉ đạo và hạn chế khắc phục những tiêu cực đó. Ở đây chúng ta nói đến TPKT chủ đạo đảm nhận vai trò này - nó phải có một sức mạnh vật chất đủ lớn mới có thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc điểm như đã nói trên đây, chúng ta nhận thấy rằng KTNN có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ đó, với sản lượng giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng tương đối lớn tạo ra đem lại khả năng chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt và định hướng thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp.
KTNN tạo dần nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, thu nhập của dân cư thấp kém, tích luỹ nhỏ nên việc đầu tư lớn chỉ có thể thực hiện được bằng vốn NN. Mặt khác, KTNN thông qua việc cung cấp hàng hoá tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lưu thông phân phối giữa các ngành và các khu vực, góp phần đảm bảo việc xoá đói giảm nghèo, tiến hành các biện pháp trợ cấp thường xuyên, đột xuất, cho vay vốn để phát triển sản xuất, góp phần khắc phục sự khác biệt giữa các vùng và qua đó làm tăng tinh thần hoà hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc.
III-NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC
1. Những thành tựu mà KTNN đã đạt được trong những năm qua
Thực tiễn cho thấy đến nay KTNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta, nhất là các ngành công nghiệp, xây dựng, vận tải, bưu chính viễn thông, đường sắt, hàng không…KTNN cũng đóng góp một phần đáng kể vào tỉ trọng GDP trên 40% hàng năm và là lực lượng chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân sách nhà nước 60%.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, KTNN đang từng bước đổi mới. Về cơ cấu kinh tế đã có thay đổi lớn, tổng sản phẩm xã hội của KTNN giảm từ 37% năm 1998 xuống 34,5% năm 1990; thu nhập quốc dân giảm từ 28% xuống 27%; tổng sản phẩm công nghiệp lại tăng từ 56,6% lên 57%; khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng từ 68% lên 72%. Trong việc thực hiện cơ chế mới, một số cơ sở KTNN đã chủ động xác định và thay đổi phương thức kinh doanh, tìm thị trường đầu ra, tạo thêm nguồn vốn đi vay, trình độ kỹ thuật công nghệ đã được đổi mới… Nhờ đó, các cơ sở KTNN vẫn phát triển và kinh doanh có lãi.
Do yêu cầu của thời kỳ đổi mới, từ năm 1989 thực hiện chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước chúng ta đã mạnh dạn cắt giảm một lượng đáng kể doanh nghiệp hoạt động trong KTNN nhưng không đem lại hiệu quả kinh tế từ khoảng 12.000 năm 1990 xuống còn 5340 vào tháng 8 năm 2000. Nhờ đó, quy mô vốn tự có và vốn ngân sách cấp cho các cơ sở doanh nghiệp tăng lên; các doanh nghiệp có thêm vốn đầu tư, hiện đại hoá máy móc thiết bị, giúp cho năng suất lao động nâng cao đem lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời, sau khi sắp xếp lại tổ chức sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nhiều doanh nghiệp đã chủ động sáng tạo tiếp cận thị trường xã hội và đã đứng vững, sản xuất kinh doanh có lãi, nguồn thu nộp ngân sách nhà nước chiếm 61%.(1)
 

(1) B¸o c¸o cña Bé Tµi chÝnh vÒ c¸c chØ tiªu chñ yÕu, th¸ng 3-1993.

Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu KC161 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)