Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA154 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Vai trò của ngân sách nhà nước trong việc điều chỉnh và ổn định thị trường ở Việt nam hiện nay

Ngày nay nền kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí và vai trò của tài chính nhà nước ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy xây dụng nền tài chính tự chủ vững mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở nước ta, trong đó Ngân sách nhà nước (NSNN) đóng vai trò chủ đạo trong nền tài chính quốc gia.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2218 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 20-06-2012 02:48:41 PM
Mã Tài liệu
DA154
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
A : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG CƠ  BẢN VỀ NSNN
I.KHÁI NIỆM VỀ NSNN:
 
Trong hệ thống tài chính, NSNN là  bộ  phận chủ đạo, là điều kiện  vật chất  quan  trọng để thực hiện  các nhiệm vụ của Nhà nước do hiến pháp quy  định,  nó còn là công cụ quan trọng  của Nhà nước có tác dụng  điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội, muốn  sử  dụng  tốt công  cụ này phải nhận  thức được  những vấn đề lý luận cơ  bản về NSNN.
Thuật ngữ NSNN ‘’Budget’’ bắt nguồn từ tiếng anh có nghĩa là cái ví,  cái xắc . Tuy  nhiên  trong  cuộc  sống  kinh tế thuật  ngữ này đã  thoát  ly ý nghĩa  ban  đầu và mang nội dung hoàn toàn mới, Do  đó để đảm bảo khách quan chúng  ta sẽ  tham khảo các tài liệu kinh điển của nước ngoài để rút  ra những kết luận cần  thiết vừa phù hợp  với chuẩn mực  quốc tế, vừa  phản ánh được những đặc  điểm cụ  thể của nước ta.
Theo cuốn từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô ‘’cũ’’ thì NS là:
1.Bảng liệt kê các khoản thu  chi  bằng tiền trong  giai đoạn nhất định của NN.
2.Mọi  kế hoạch thu  chi  bằng tiền bất kỳ một cơ q      uan,  cá nhân  nào trong  một giai  đoạn nhất  định
Cuốn tư  liệu  xanh  của Pháp được ấn hành nhằm hướng dẫn  một  số luật định tài chính và  thuế,  trong đó NS  được hiểu là:
1,Chứng từ  dự  kiến cho phép các khoản thu  chi  hàng  năm của NN
2,Toàn bộ  tài liệu kế toán mô  tả, trình bày cá  khoản chi  phí củaNN  trong một năm.
3,Toàn bộ  các khoản trình bày tiền mà một Bộ được cấp trong  một năm
Từ  những tài liệu vừa  nêu,  có thể rút ra  một số kết luận của NS như sau:
Thứ nhất: NS là  một bảng liệt kê, trong  đó dự kiến cho  phép thực hiện các khoản thu,  chi bằng  tiền của một chủ  thể nào đó ‘’Nhà  nước, Bộ…’’
Thứ hai: NS tồn tại trong khoảng thời  gian nhất định thường  là một năm
Thứ ba: NSNN là những quan  hệ kinh tế phát triển trong quá  trình NN huy động  và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau
Xét về nhiều mặt thì NSNN là  một hoạt  động  tài chính cụ thể của nhà nước,  vì vậy khái niệm NSNN phải được  xem  xét trên các mặt hình thức,  thực  thể và quan hệ kinh tế chứa  đựng bên trong NSNN.
Xét  theo hình thức biểu hiện bên  ngoài và ở trạng thái tĩnh, NSNN  bao gồm  những nguồn thu  cụ  thể,  những khoản chi cụ thể và  được  định hướng  các nguồn  thu đều  được  nộp  vào một quỹ tiền tệ – quỹ NSNN và các các khoản đều được xuất ra từ quỹ  tiền tệ ấy.
Cũng  cần  phải thấy  rằng, thu chi NSNN hoàn toàn không giống như bất kỳ một hình  thức  thu  chi  nào  khác. ở đây thu  chi của NN luôn  được thực  hiện  bằng luật pháp do luật định ‘’về thu có  các luật thuế và  các văn  bản khác về chi  có các tiêu chuẩn luật  định’’. Trên cơ sở đó nhằm đạt mục  tiêu cân  đối giữa thu  và chi NSNN.
Mặt khác NSNN còn phản ánh các quan  hệ kinh tế  giữa một  bên là NN  một bên  là các chủ thể trong xã  hội,  phát  sinh khi nhà  nước tham  gia phân phối  các nguồn tài chính theo  nguyên tắc  không  hoàn  trả  trực  tiếp là chủ yếu. Những  khoản thu nộp  và cấp phát qua quỹ NSNN là các quan  hệ được xác định trước, được định lượng và NN sử  dụng chúng để điềuchỉnh vĩ mô  nền kinh tế.
Từ những  phân  tích trên,  ta có thể xác định được ‘’NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền  với quá  trình tạo lập  phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ  chung của NN khi  NN  tham  gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia  nhằm thực hiện các chức năng của NN trên cơ sở luật  định’’
Để  làm rõ  thêm quan  niệm về NSNN cần thiết phải chỉ ra  các đặc điểm và vị trí của NSNN, chúng ta sẽ đề  cập  vấn  đề này trong phần  nghiên cứu tiếp theo.
II.ĐẶC ĐIỂM CỦA NSNN:
Qua nhận định cơ bản đã trình bày ở trên chúng ta đã hiểu được phần nào vai trò của nó cụ thể trong việc điều  chỉnh ổn định  thị trường hiện nay
Để có được nhận thức đúng đắn về vấn  đề này  chúng ta đi  tìm  hiểu đặc điểm của NSNN. Trong hệ thống tài chính quốc  gia cũng  như trong khu  vực tài chính NN nói  riêng NSNN đóng vai trò quan  trọng trong  đảm bảo nguồn tài chính cho sự tồn tại  cũng như hoạt động của NN. NSNN bao  gồm quan  hệ  tài chính nhất định trong tổng thể các quan  hệ tàI chính quốc gia,  gồm các quan  hệ sau:
-Quan hệ tài chính NN  với dân sự
-Quan  hệ tài chính NN với các DN thuộc mọi  thành phần kinh tế
-Quan hệ tài chính NN với các tổ chức xã hội
Các quan  hệ trên mang  4 đặc  điểm sau:
Thứ nhất: Tạo  lập  và  sử  dụng NSNN gắn liền quyền  lực  với việc  thực hiện  các chức năng  của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa NSNN với các khoản tài chính khác. Các khoản thu NSNN đều  mang tính  chất  pháp lý,  còn  chi NSNN mang tính cấp phát ‘’không  hoàn  trả  trực tiếp’’. Do  nhu  cầu chi tiêu của mình để thực  hiện nhiệm vụ  kinh tế-Xã  hội NN đã sử dụng  để quy  định hệ thống pháp luật tài chính,  buộc mọi pháp nhân và  thể nhân  phải nộp một phần thu nhập của mình cho NN với tư cách là một  chủ thể.
Các  hoạt động thu  chi NSNN đều tiến hành  theo  cơ sở nhất định đó là các luật  thuế, chế độ  thu  chi…do NNban hành,  đồng  thời các hoạt động luôn chịu sự kiểm tra của các cơ quan NN.
Thực vậy khi NN ban  hành một loại thuế mới hay sửa  đổi phải được  Quốc hội  thông  qua’’Ví dụ: luật thuế thu  nhập DN đi vào  thực hiện ngày 1/1/2004’’. Theo  luật thuế mới  này các DN  chịu  thuế suất 32% giảm 28% riêng DNNN trước đây  chịu 25% thì nay tăng 28%  để chính  xách thuế có hiệu lực,  trước đó Quốc hội  đã họp  thông qua ngày 17/6/2003 ‘’ Khóa XI’’
Thứ hai: NSNN luôn  gắn chặt với NN chứa đựng  lợi ích chung  và công,  hoạt động thu  chi NSNN là thể hiện các mặt KT-XH của NN,  dù dưới hình thức nào thực chất  cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa NN  và XH thể hiện qua các khoản cấp  phát từ NSNN cho  các mục  đích tiêu dùng  và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa NN  và XH dó đó thể hiện ở phạm vi rộng lớn.
 Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác NSNN cũng có đặc điểm riêng của một quỹ tiền  tệ, nó  tập  chung lớn nhất của NN  là nguồn tài chính nên NSNN  là giá trị  thặng dư của xã hội  do đó nó mang  đặc đIểm khác biệt.
Thứ tư: Hoạt động thu cho của NSNN được  thể hiện theo  nguyên tắc không hoàn lại  trực tiếp đối với người có thu nhập cao  nhằm mục đích  rút ngắn khoản thời gian giữa  người  giàu và nghèo để  công bằng xã hội, ‘’Ví  dụ: Xây  dựng đường xá, an  ninh quốc phòng…’’người chịu thuế  sữ được  hưởng lợi từ hàng hóa này nhưng hoàn  trả một cách trực tiếp. Bên cạnh  đó NN còn trợ cấp cho gia  đình chính sách, thương binh…’’từ nguồn thu  được.
 
III.THU VÀ CHI NSNN:
  1.Thu NSNN:
Thu NSNN là một việc làm nhằm thỏa mãn các nhu  cầu của mình  được tập trung từ  nhiều nguồn  khác nhau trong đó chủ yếu là thu nhập  quốc dân,  giữa thu nhập  quốc dân và  thu  nhập NSNN có mối quan hệ  chặt chẽ với nhau,  tăng thu nhập  cho NN cũng là kích thích sự tăng thu nhập cho  quốc dân.
Thu  NSNN được  hình thành từ  nhiều phía, việc phân  loại các khoản thu có ý nghĩa thiết  thực,  đánh  giá và quản lý  các nguồn thu  NSNN  có  hai  cách phân loại phổ biến như sau:
1.1.Phân loại nội dung kinh tế có thể chia làm  2  nhóm:
a.Nhóm thu  thường xuyên có tính chất  bắt buộc gồm thuế phí, lệ phí với nhiều hình thức cụ  thể của luật định
1-Thu từ thuế:
Thuế là  khoản đóng góp theo  quy  định pháp luật bắt buộc mọi tổ chức cá nhân có nghĩa vụ  phảI nộp NSNN
Khác với các khoản vay NN thu  thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không hoàn  trả trực tiếp cho người nộp sau  khoảng thời gian với khoản tiền mà  họ đã nộp NSNN
Thuế còn là phương  thức huy  động chủ yếu,  nó tạo  lên bộ  phận quan trọng quyết định sự tồn tại NSNN  của nhiều quóc gia trên thế giới,  theo số liệu  thống kê của nhà nước Việt nam thì tỷ lệ thuế chiếm 91,6% tổng số thu NSNN đến năm 1999 tỷ lệ này là 95,1% ( trích theo số liệu năm 1999).
Nó bao  gồm các khoản sau:
1.Thuế tiêu thụ  đặc  biệt
2.Thuế GTGT ( VAT)
3.Thuế nhà đất
4.Thuế DN
5.Thuế tài nguyên
6.Thuế xuất nhập  khẩu
7.Thuế sử dụng đất nông nghiệp
8.Thuế môn  bài
9.Thuế chuyển quyền sử dụng đất
10.Thuế thu  nhập  đối với người có thu nhập cao.
2-Thu  từ lệ phí:
Khác với thuế, lệ phí là  khoản thu  mang  tính bắt buộc nhưng  có tính chất dân bỏ ra trả Nhà nước khi họ hưởng những dịch vụ hành chính  do Nhà nước cấp  ví dụ: lệ  phí trước bạ, công  chứng,  xác nhận, cấp visa…lệ phí thu từ cơ quan  công quyền thu và  nó có tính điều tiết cao.
3-Thu từ  phí:
Phí là khoản thu có tính chất bắt buộc do  dân chúng trả cho Nhà nước khi hưởng dịch vụ, hàng hóa cũng  như lệ phí nó có  tính chất đối giá. Nhưng phí mang  tính chất bù đắp các khoản  chi phí đầu tư mà Nhà nước bỏ ra, đây là điểm khác biệt với lệ phí, phí  do các đơn vị  hoạt động thu  như phí cầu đường, phí chợ…
b.Nhóm thu  không thường xuyên:
+Thu từ  hoạt động  kinh tế
+Thu từ vón đóng góp của NN
+Thu hồi vốn  của Nhà nước tại  các cơ sở kinh tế
+Thu tiền cho  vay của Nhà nước (  cả gốc và lãi)
+Phần nộp  cho  NSNN theo quy định  của pháp luật từ các hoạt động sự  nghiệp
+Thu  từ  bán hoặc cho  thuê tàI nguyên thuộc sở hữu  của NN
+Thu từ viện  trợ không hoàn lại của chính phủ các nước,  tổ  chức cá  nhân,  tự  nguyện của các cá thể trong và ngoài nước
+Các khoản thu khác theo  quy  định của  pháp  luật như từ: phạt, tịch thu, tịch biên tài sản…
1.2.Phân loại  theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN có thể chia thành:
-Thu trong  cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu  thường xuyên và không  thường xuyên trừ thu từ vay  nợ  và viện trợ
-Thu để bù đắp thiếu hụt NSNN không đáp ứng nhu  cầu chi  tiêu NN phải đi vay, bao  gồm vay  trong  nước,  các tầng lớp dân cư, NH…
2.Chi NSNN
Chi  NSNN là việc phân phối sử dụng quỹ NSNN nhằm thực hiện các chức năng của NN theo  nguyên tắc  nhất định
Chi NSNN là sự  phối hợp  giữa hai quá trình phân phối và sử dụng NSNN,  quá trình phân phối là  quá trình  cấp  phát kinh phí  từ NSNN để hình thành các quỹ trước khi đưa ra sử dụng, quá  trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi  dùng khoản tiền cấp phát từ NSNN ví dụ như: Dùng quỹ NSNN đầu tư xây  dựng  cơ bản, các chương  trình kinh tế có mục tiêu….
Việc phân biệt  hai quá trình trong chi  tiêu NSNN có ý nghĩa trong quản lý NSNN
Có nhiều tiêu thức để phân loại các khoản chi tiêu NSNN theo mục  đích nhất định ở đây ta chỉ xét căn  cứ theo yếu tố và phương  thức quản lý nội dung của khoản chi, người ta có thể phân khoản chi thành các nhóm sau:
2.1.Nhóm chi  thường xuyên:
Là  khoản chi  có tính chất hàng năm mà Chính phủ phải lên kế hoạch và dự  tính đầu mỗi năm tài chính, nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của NN nó bao gồm:
+Chi phí quản lý hành chính bộ máy NN (Chi  trả lương và tiền công )
+Chi mua sắm hàng hóa,  dịch vụ…
+Các khoản thanh toán có tính chất một chiều : BHXH, BHYT…
2.2.Nhóm chi đầu tư phát triển:
Phát  triển kinh tế là  nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các NN hiện đại,  để đạt sự phát triển,  chính phủ hoạch định chiến lược đúng đắn, phù hợp  vốn đầu tư của NN cho nên  các nhóm  chi đó có thể chi  cho  từng đơn vị cá nhân hay DN Nhà nước để xây dựng nhà  xưởng, cơ sở hạ tầng….
Để đạt được điều đó NSNN cần phải đối chiếu sao cho phù hợp với mọi hình thức như: Hóa đơn, chứng từ , và các hạng mục đầu tư để từ đó đầu tư cho các công trình, xí nghiệp, hoặc là các cá thể.
2.3.Chi trả nợ  và viện  trợ:
ở nước ta mặc dù cơ cấu chi NSNN được sắp xếp theo  thứ tự ưu  tiên như sau: Chi đầu tư phát triển, chi  thường xuyên và chi trả nợ nhưng tỷ lệ chủ đầu  tư còn chiểm một tỷ lệ khiêm tốn khoảng 20% tổng chi NSNN và  trong một số năm gần đây còn có xu  hướng giảm. Trong đó tỷ  lệ chi  thường xuyên còn quá lớn gần 70% tổng số chi NSNN,  theo thống kê thì  đến cuối năm 2004 khoảng 14 tỷ (74% GDP ) trong  đó 70% của chính phủ và  các khoản gắn nợi ( đây là  số tiền  giãn nợ khoảng 1,7 tỷ USD,  hàng năm  chính phủ phải dành khoảng 10% tổng chi  phí NSNN để trả nợ  cho các chủ đến hạn.
3.Cân đối NSNN:
NSNN của mỗi quốc gia có thể ở một trong  ba tình trạng sau:
Thặng dư NS  thu > chi
Cân bằng NS khi thu =  chi
Thâm  hụt  NS khi  thu < chi
Tuy  nhiên trong  tình trạng dư  và cân bằng rất ít khi hoạt động mà
thâm hụt  NSNN là phổ biến ở tất cả các nước. Cân đối thu chi NSNN là điều  mong muốn của  mọi  chính phủ ở các nước,  nguyên tắc cân đối ngân sách bền vững với công  thức tổng số thu từ thuế,  phí  và lệ phí lớn hơn  tổng số chi thường xuyên,  dành phần  tích lũy cho  đầu tư phát triển,  số bội thu nhỏ hơn  tổng chi đầu tư phát triển và tiến tới cân bằng thu chi NSNN là một hướng đi đúng đã và đang được các quốc gia hết sức coi  trọng và giữ vững. Tránh tình  trạng khủng hoảng sản xuất thừa năm 1929 – 1933 ở những nước tư bản phát triển mặc dù sau gần 80 năm nhưng  hậu quả cũng  như bài học nó để lại thì nhiều thế hệ sau đo nhắc tới.
-Về mặt xã hội,  trong nền kinh tế thị  trường mục tiêu cao nhất là lợi nhuận,  do đó có thể các DN’’ doanh nghiệp ‘’ không chú ý tới các vấn đề giải quyết vấn đề chung về mặt xã hội, từ đó dẫn đến việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên môi trường lãng phí, gây ô nhiễm môi trường,  khai thác không hợp lý và có quy hoạch các nguồn khoáng sản, đất đai vùng biển ….
Tuy nhiên sự phát triển độc quyền và sự phát triển tự phát tình trạng phân hóa xã hội vẫn đang tồn tại và đang thách thức chính phủ đặc  biệt là chính phủ các nước đang phát triển.
4..Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay:
Bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đang thực hiện chuyển mới nền kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế kế hàng hóa’’ Mô hình của nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế nhiều thành phần, vận  động cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,  định hướng xã hội chủ nghĩa ‘’ nói tóm lại là kinh tế thị trường định hướng.
Hiện  nay nền kinh tế nước ta đang ở độ kém phát triển bởi cơ sở vật chất, máy móc nghèo nàn lạc hậu. Theo UNDP thì Việt nam đang  đứng 2/7 nước có công nghệ lạc hậu nhất  bởi vì máy  thường  thường dùng từ 2-3 thế hệ cho nên năng xuất lao  động chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới và chất lượng  sản phẩm thì chưa cao,  nó thể hiện  ở: Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượn lao động nhưng chỉ sản xuất 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiểm tỷ trọng thấp.
Từ nguyên nhân ở trên cho  ta thấy sự bất ổn lớn trong kinh tế, thị trường hàng hóa là một minh chứng cho vấn đề này,  nhiều hiện tượng tiêu cực vẫn xảy  ra như: nhãn mác giả,  hàng giả, nhập lậu …do bắt nguồn từ bản chất của nền kinh tế thị trường nên  kinh tế thị trường có mặt tốt là cho  phép các DN  cạnh tranh, từ đó kích  thích tăng trưởng sản xuất tăng  năng xuất lao động.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA154 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)