Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA091 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Ngành Dệt May Việt Nam trên con đường hội nhập

Trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong mấy năm gần đây, các thị trường luôn được rộng mở,số lao động trong ngành ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đong góp của ngành vào thu nhập quốc dân… Tuy nhiên trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và những biến động của môi trường kinh tế , ngành Dệt may đang đứng trước những khó khăn và thách thức mới cho sự phát triển.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2807 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 20-06-2012 09:39:32 AM
Mã Tài liệu
DA091
Tổng điểm Đánh giá
5 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
I. THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
1.1 Thị trường dệt may
 Trong hơn 10 năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 23.8%/ năm, vươn lên đứng thứ 2 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Nếu như năm 1990 hàng dệt may Việt Nam mới chỉ có mặt ở gần 30 nước trên thế giới thì đến nay đã hiện diện ở hầu khắp các châu lục với trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng. Năm 1998 xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,45 tỷ USD, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000 xuất gần 1,89 tỷ USD, gấp 16 lần so với năm 1990. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 2,7 tỷ USD, tăng 30,7% so với năm 2001, vượt kế hoạch 12,5%. Năm 2003 là 3,6 tỷ USD và vượt hơn 400 triệu USD so với mục tiêu đề ra, điều này không chỉ góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu nói chung của cả nước tăng 20% mà còn tạo cở sở vững chắc cho sự tăng trưởng xuất khẩu cho những năm sau.
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY QUA CÁC NĂM
Đơn vị : triệu USD

 
 Thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nước ta hiện nay là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU.
*Thị trường EU
Hàng dệt may chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU
Từ năm 1993, EU dành cho Việt Nam điều kiện xuất khẩu hàng dệt hàng năm và từng đợt điều chỉnh tăng hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng từ 1991 đến nay. Trị giá xuất khẩu trong các năm 1991 đến 2001 tăng lên 21 lần. Tăng trưởng liên tục hàng năm: năm thấp nhất (1993) cũng tăng 5,3%, các năm cao đạt 77,6% (1994 và 1997), 87,6% (1995).
Bên cạnh đó EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về hàng may mặc (40% xuất khẩu may mặc của Việt Nam). Từ trước đến nay hàng này được EU cấp hạn ngạch, tăng số lượng hàng năm. Tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 38%. EU và Việt Nam đã ký hiệp định xuất khẩu may mặc của Việt Nam thời kỳ 1998-2000, tăng 31% so với 1992-1997. Việt Nam sử dụng cả hạn ngạch của EU cấp cho Singapore, Indonesia, Philipin. Giai đoạn 2001-2002 EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam với 16 mã hàng may mặc xuất khẩu sang EU. Tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam giữ mức 15-16% kim ngạch xuất khẩu. Năm 1999 xuất khẩu hàng này đạt 700 triệu USD. Các nước nhập khẩu lớn là Đức, Pháp, Hà Lan, Anh. Nhiều nước đặt gia công may mặc cho Việt Nam (Đức, Pháp …)
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU DỆT MAY VÀO EU
Đơn vị: triệu USD

*Thị trường Nhật Bản
 Nhật Bản là một thị trường mở, có quy mô tương đối lớn đối với các nhà xuất khẩu hàng may mặc nước ngoài, là nước nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ 2 trên thế giới với số dân 126,9 triệu người và mức thu nhập bình quân hàng năm 30.039USD/người. Tuy nhiên, việc mua sắm của người Nhật Bản đối với các sản phẩm may mặc khác với thị trường Mỹ, EU. Người tiêu dùng Nhật Bản chịu tác động rất mạnh bởi các phương tiện thông tin đại chúng như các loại tạp chí, phim ảnh. Nếu như có một mẫu mốt mới xuất hiện ở Newyork, Milan, Pari hoặc Tokyo thì các phương tiện thông tin về thời trang đều đưa tin cập nhật đến mẫu mốt đó, làm thay đổi sở thích tiêu dùng hàng may mặc rất nhanh. Trong khi đó, hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ mới đáp ứng được một cách tương đối hai yêu cầu, đó là giá cả và chất lượng. Còn yêu cầu về kiểu dáng thì kiểu dáng hàng may mặc Việt Nam rất nghèo nàn, không đa dạng do ngành công nghiệp thiết kế thời trang trong nước chưa phát triển, về nhãn mác chỉ người tiêu dùng trong nước mới biết đến nhãn mác các sản phẩm may Việt Nam.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
105.7 58.4 104.1 210.5 309.5 325 321 417 620 592 480
Đơn vị : triệu USD
 
 Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đứng thứ 4 trong các nước có hàng may xuất khẩu vào Nhật Bản. Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là hàng may mặc như Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi, quần áo lót, quần áo dệt kim…. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản hàng năm đến năm 2000 đạt cao nhất (620 triệu USD), sau đó đến năm 2001 lại giảm 5%so với năm 2000 còn 592 triệu USD. Theo số liệu mới nhất của Bộ Thương mại thì năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đạt dưới 500 triệu USD, giảm 20% so với năm 2001. Nguyên nhân chính là do sức ép cạnh tranh của hàng Trung Quốc có chất lượng, mẫu mã đa dạng và giá rẻ, hiện đã chiếm tới gần 90% thị phần hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã bước sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa. Còn xuất khẩu cả năm qua cũng giảm 1,8% so với năm 2002.
*Thị trường Hoa Kỳ
   Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ: năm 1998 đạt 26.4 triệu USD, năm 1999 đạt 48 triệu USD, năm 2000 đạt 60 triệu USD, năm 2001 đạt 49 triệu USD.
Năm 2001 Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ thương mại trở lại bằng việc ký kết một hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ. Có thể nói đây là một cơ hội mới rất tốt cho thương mại của Việt Nam, trong đó có ngành may mặc. Bởi Hoa Kỳ được xếp là nước có lượng nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất trên thế giới, thêm vào đó trong thời gian đầu Mỹ không áp dụng quator cũng như việc mức thuế sẽ giảm từ 40% xuống còn 20% sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực.
  Sau một năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, hàng dệt may vươn lên đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may tăng lên tới 1,9 tỷ USD. Các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ cũng đa dạng hơn so với trước. Tháng 1 năm 2001, Việt Nam mới chỉ có khoảng 17 chủng loại có kim ngach xuất khẩu đáng kể nhưng đến tháng 7 năm 2002 đã có đến 42 chủng loại khác nhau xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Đồng thời tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên rõ rệt. Năm 2001 hàng dệt may chỉ chiếm 4,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam thì đến tháng 7 năm 2002 đã lên đến 24,2%, chỉ đứng sau nhóm hàng hải sản, vượt qua các nhóm hàng truyền thống là khoáng sản và giầy dép. Mặc dù có sự đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhưng tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may tập trung chủ yếu vào các loại quần áo dệt kim và dệt thoi, các mặt hàng khác chiếm tỷ trọng không lớn.

  1.2 Thiết bị công nghệ ngành Dệt may.
Thiết bị công nghệ ngành Dệt may Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu đồng bộ, sản phẩm làm ra không có năng lựccạnh tranh. Theo chương trình phát triển Liên hợp quốc ngành Dệi may Việt Nam đang ở trình độ 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 3-3 thế hệ. Điều này làm cho năng lực sản xuất của ngành Dệt may còn nhiều hạn chế.
          Máy móc thiết bị ngành Dệt phần lớn là cũ kỹ, lạc hậu và có xuất xứ từ nhiều nước. Ngành Dệt có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm nên hư hang nhiều, mất tính năng vận hành tự động nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao.Trong nhiều năm qua, hầu hết các doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn tự có, vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm thiết bị,góp phần năng cao chất lương công nghệ, đa dang hoá sản phảm.Hàng ngàn máy dệt không thoi, có thoi khổ rông đã được nhập về, nhiều bộ đồ mắc mới , hiện đại đã được trang bị thay thế cho những thiết bị quá cũ. Tuy ngành Dệt đã có nhiều cố gắng trong đầu tư đổi mới công nghệ nhưng cho đến nay trình độ kỹ thuật của ngành vẫn còn lạc hậu so với khu vực và thế giới.
          Trong 5 năm gần đây , toàn ngành đã tranh bị thêm được gần 20.000 máy may hiện đại các loại để sản xuất các mặt hàng sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao động, áo phông các loại… cải thiện một bước chất lượng hàng may xuất khẩu và nội địa. Ngành may liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng yêu cầu chất lượng của thị trường thế giới.Các máy may được sử dụng hiện nay phần lớn là hiện đại, có tốc độ cao(4.000-5.000 vòng/phút), có bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Một số doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền đồng bộ, sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng như đây chuyền may sư mi của May 10, đây chuyền may quần đứng có thao tác bộ phận tự động theo chương trình, đây chuyền sản xuất quần Jean có hệ thống máy giặt mài.
1.3 Nguyên liệu cho ngành Dệt may.
          Việc sản xuất nguyên liệu bông từ các nguồn trong nước hiện đang thu hút sự quan tâm đặc biệt. Hiện nay, Việt Nam chỉ có t5hể sản xuất hơn 3.000 tấn bông/năm, đáp ứng được 5% nhu càu của ngành Dệt trong nước. Sợi  tổng hợp phải nhập khẩu hoàn toàn và sợi bong cho  sản xuất hàng dệt kim cũng phải nhập khẩu với số lượng lớn hàng năm. Hơn nữa, dù ngành hoá chất trong nước tương đối phát triển nhưng 100% hoá chất nhuộm và hơn 80%hoá chất khác vẫn phải nhập khẩu. Như vậy vấn đề nguyên liệu chính là vấn đề nan giải cho ngành dệt. Cho đến nay mặc dù cây bông Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng cơ chế và tổ chức thực hiện còn lúng tong. Có tới 95% nguyên liệu chính(bông) phải nhập khẩu với giá không ổn đinh. Hiện tại các doanh nghiệp Dệt vẫn phải chạy theo thị trường mua bông theo kiểu mớ món, giá cả thất thường làm cho sản xuất kinh doanh ở thế bị động và bất lợi.
          Đầu ra của dệt chính là đầu vào cho may hay nói cách khác là sản phẩm của ngành Dệt chính là nguyên liệu  cho ngành May. Nhưng nguyên vật liệu trong nước (ngành Dệt) chưa đáp ứng được do chất lượng thấp, nên phải nhập do đó rất bị động , thường không đồng bộ.Các sản phẩm Dệt thường không đạt tiêu chuẩn về chất lượng và có tính chất đơn điệu. Vải sợi sản xuất trong nước phần lớn được sử dụng ở các doanh nghiệp địa phương để sản xuất quần áo cho nông thôn và vùng xa, chỉ thoả mãn một số nhu cầu của thành thị. Điều này chính là nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà chế tạo may mạc và thời trang, cũng như các nhà thiết kế để nâng cao hiệu suất sử dụng các nguồn nguyên liệu trong nước.Trên 80% vải sẵn có trong nước hiẹn nay đều phải nhập khẩu. Thậm chí các doanh nghiêp may thuộc Tổng công ty Dệt may cũng hông sử dụng vải do các công ty trong nước sản xuất, có tới 90% nguyên vật liệu để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu phải nhập từ nước ngoài nên bị phụ thuộc vào khách hàng bên ngoài. Vì vậy giá trị xuất khẩu của ngành may lớn nhưng nguyên liệu chính và phụ phần lớn phải nhập khẩu nên hiệu quả thấp.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA091 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)