Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu DA354 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Các công cụ trên thị trường tài chính ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Trải qua hơn mười năm, kể từ 1986, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện lại những kết quả quan trọng bước đầu. Những thay đổi tích cực và toàn diện đường lối đổi mới nhằm chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Công cuộc đổi mới đã kéo theo hàng loạt những biến đổi tích cực về nền kinh tế và đem đã và đang tạo nên cơ sở quan trọng ban đầu để tiến tới hình thành thị trường tài chính ( TTTC ) ở nước ta.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
9008 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 24-06-2012 08:27:28 PM
Mã Tài liệu
DA354
Tổng điểm Đánh giá
9 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
Chương I
Một số vấn đề cơ bản về công cụ của TTTC

          Sản xuất và tái sản xuất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Và bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng đều phải giải quyết 3 vấn đề lớn :
          Một là, cân nhắc tính toán và quyết định cần phải sản xuất những sản phẩm gì ? dịch vụ gì ? với số lượng bao nhiêu ?
          Hai là,  sản xuất bằng phương pháp nào
          Ba là,  những sản phẩm được sản xuất ra được  phân phối bằng cách nào? phân phối cho ai? Khả năng sản xuất không phải là vô hạn nhưng luôn bị khai thác và sử dụng một cách rất lãng phí. Sản xuất những thứ cần thiết, tiết kiệm, tăng cường kinh tế tới mức tối đa là nhiệm vụ chủ yếu của mọi nền sản xuất xã hội.
          Muốn giải quyết được 3 vấn đề cơ bản trong nền kinh tế không phải là vấn đề đơn giản tuy khó hoàn thành hết trọn vẹn nhưng cần phải làm. Thời nay phát triển kinh tế thị trường cững để thực hiện mục tiêu đó. Phần nào phát triển và hoàn thiện TTTC mà đặc biệt phát triển, hoàn thiện công cụ TTTC giúp cho TTTC hoạt động có hiệu quả hơn, và do đó hiệu quả sản xuất trong nền kinh tế được nâng cao.
          TTTC được hình thành cùng với các công cụ của nó là tất yếu. Ở đó, khi mà nền kinh tế có những cá nhân, tổ chức thừa vốn, họ không có khả năng làm vốn sinh lời. Trong khi có những cá nhân, tổ chức khác có khả năng làm vốn sinh lời nhưng lại thiếu vốn. Xuất hiện nhu cầu luân chuyển vốn trực tiếp từ người có vốn đó sang người cần vốn. Và chỉ có TTTC mới đảm nhận được vai trò đó một cách tốt nhất, bằng cách bán ra thị trường những công cụ tài chính và người cần vốn mua vào công cụ đó, giúp vốn được luân chuyển.
          Dựa vào kỳ hạn của các công cụ mà xem xét công cụ TTTC ở 2 khía cạnh công cụ thị trường vốn và công cụ thị trường tiền tệ.

I. CÔNG CỤ THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

            Thị trường tiền tệ là một bộ phận của TTTC, ở đây diễn ra việc mua bán, trao đổi các công cụ nợ ngắn hạn.
1. Tín phiếu kho bạc Nhà nước :
          Là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ, nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách tạm thời.
          * Tín phiếu Kho bạc  Nhà nước có những đặc điểm sau :
          - Là công cụ vay nợ ngắn hạn có tính lỏng cao nhất, tính lỏng dựa trên thời gian chuyển đổi nhanh; chi phí cho việc chuyển đổi phù hợp, được mua bán ráo riết nhất;
          - Độ an toàn cao :  do kỳ hạn thanh toán ngắn nên tín phiếu KBNN chịu mức giao động giá tối thiểu, và do đó ít rủi ro. Cùng với việc chính phủ đảm bảo chi trả : Chính phủ tăng thuế hoặc vay tiếp hoặc phát hành tiền để trả nợ.
          - Bởi hai đặc điểm trên mà tín phiếu KBNN có lãi suất là thấp nhất trong hệ thống các công cụ vay nợ ngắn hạn.
          - Được phát hành ra dưới nhiều hình thức khác nhau để lựa chọn người mua cho phù hợp : loai tín phiếu KBNN có lợi tức được trả trước, loại tín phiếu KB có lợi tức được trả sau, loại tín phiếu KB không ghi phần lãi mà là chênh lệch giữa giá mua và giá bán bằng lợi tức....
           * Chủ thể nắm giữ chủ yếu là ngân hàng thương mại ( NHTM ) với hai mục đích khi mua : thu lợi tức từ tín phiếu KB và nắm giữ để đảm bảo khả năng thanh khoản.
          Bên cạnh NHTW mua tín phiếu KB để điều chỉnh lượng tiền cung ứng  ( MS ) trong nền kinh tế là công cụ quan trọng nhất trong hoạt động thị trường mở.
          2. Chứng chỉ tiền gửi :
          Là giấy chứng nhận cho việc gửi tiền của các cá nhân hay tổ chức vào NHTM hoặc các tổ chức tín dụng khác. Và chiếm một tỷ lệ khá lớn trong số các loại tiền gửi ngân hàng.
          Chứng chỉ tiền gửi được mua đi bán lại ở thị trường thứ cấp tuỳ thuộc vào quy định của ngân hàng, điều kiện của các nước. Đến khi tăng khả năng cạnh tranh về việc huy động vốn các ngân hàng cho phép mua bán lại nó làm tăng tính lỏng.
          Chúng được mua đi bán lại vì trong thị trường có nhu cầu : khách hàng muốn bán lại mua vào phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau ( tiêu dùng, SXKD ), và có người mua lại chứng chỉ đó.
          Chứng chỉ tiền gửi được phát sinh bởi các NHTM, tổ chức tài chính khác và do các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế gửi tiền vào NHTM gửi vào các tổ chức tài chính khác nắm giữ.
3. Các thương phiếu : Bao gồm kỳ phiếu thương mại và hối phiếu
          3.1 Kỳ phiếu thương mại        : Thực chất là một giấy ghi nhận nợ và nó được sử dụng trong quan hệ trao đổi, mua bán chịu lẫn nhau. Người phát hành ra nó chính là người mua chịu. Người giữ là người bán chịu với mục đích giữ khác nhau : giữ nó khi thời hạn đến sẽ nhận lại tiền từ người mua chịu. Có thể sử dụng nó để làm phương tiện thanh toán, phương tiện để tất toán những khoản nợ của mình. Dùng nó để vay tiền ngân hàng, họ vay tiền ngân hàng dưới hình thức chiết khấu và cho vay tái chiết khấu.
           + Chiết khấu : Người có kỳ phiếu thương mại bán kỳ phiếu đó cho NHTM và NHTM mua lại các kỳ phiếu thương mại của khách hàng bằng chênh lệch giữa kỳ phiếu thương mại với lợi tức chiết khấu.
          Lợi tức chiết khấu = lãi suất chiết khấu * giá kỳ phiếu thương mại
          Xác định lãi suất chiết khấu dựa trên : chất lượng của kỳ phiếu thương mại, lãi suất đầu ra.
          + Cho vay tái chiết khấu : NHTW cho vay đối với các NHTM bằng cách mua lại các kỳ phiếu thương mại mà NHTM đã  chiết khấu lần đầu. NHTM bán kỳ phiếu thương mại cho NHTW = giá kỳ phiếu thương mại - lợi tức tái chiết khấu.
          NHTW cũng phải tính được lãi suất tái chiết khấu với các căn cứ : chất lượng của kỳ phiếu thương mại ( tỷ lệ nghịch với lãi suất ), lãi suất chiết khấu mà NHTM đã chiết khấu của khách hàng, mục tiêu chính sách tiền tệ trong thời kỳ đó như thế nào ( chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ tăng lãi suất và ngược lại )
          Mặt khác kỳ phiếu thương mại là vật cầm cố của NHTM : khách hàng tới vay vốn NHTM bằng cách mang kỳ phiếu thương mại tới làm vật cầm cố. Nếu họ thanh toán đúng hạn, NHTM phải trả lại kỳ phiếu thương mại cho khách hàng. Như vậy khác với trường hợp chiết khấu, nếu như  sau khi thực hiện chiết khấu thì KPTM thuộc sở hữu hoàn toàn của NHTM nhưng trong trường hợp này KPTM vẫn thuộc sở hữu của khách hàng và NHTM phải trả lại KPTM cho khách hàng khi họ đã thanh toán khi đến kỳ hạn.
          3.2 Hối phiếu :  Theo ULB, hối phiếu là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện do người sản xuất, người bán, người cung ứng dịch vụ... ký phát đòi tiền người nhập khẩu, người mua, người nhận cung ứng, và yêu cầu người này phải trả một số tiền nhất định, tại một địa điểm nhất định, trong một thời gian nhất định cho người hưởng lợi quy định trong hối phiếu, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác. Hối phiếu có những đặc điểm :
          + Tính trựu tượng của hối phiếu : không cần phải ghi nội dung quan hệ kinh tế, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả là bao nhiêu và trả cho ai, người nào sẽ thanh toán, thời gian thanh toán khi nào...
          + Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu : người trả tiền của hối phiếu phải trả tiền đầy đủ, đúng theo yêu cầu của tờ hối phiếu, không được viện lý do riêng của bản thân đối với người ký phát hối phiếu trừ trường hợp hối phiêú không còn phù hợp với đạo luật chi phối nó.
          + Tính lưu thông của hối phiếu : có được nhờ hai đặc điểm trên. Nó có thể chuyển nhượng từ người này sang người khác trong thời hạn của nó, người trả tiền sẽ thanh toán cho người cầm hối phiếu cho dù hợp đồng mua bán có thể không thực hiện hoàn chỉnh.

          Bản chất của hối phiếu

          + Là một loại thương phiếu, nó không những là một phương tiện để thanh toán, mà còn là công cụ tín dụng, nó cho phép người chủ nợ huy động được khoản đã vay ở một  ngân hàng trước khi đến hạn thanh toán hối phiếu. Ngày nay hối phiếu chủ yếu làm căn cứ cho nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Trong trường hợp hối phiếu là công cụ thanh toán, nó được các thương nhân sử dụng để thanh toán khoản trái quyền của họ, lúc đó hối phiếu đóng vai trò tương tự như tiền tệ. Nhưng việc sử dụng hối phiếu với chức năng duy nhất này ngày nay đã chấm dứt, vì người ta hay dùng séc hơn.
          + Hối phiếu luôn luôn là một chức từ thương mại, ngay cả khi những người ký trên phiếu không phải là thương nhân.
          Việc thanh toán hối phiếu : kỳ hạn trả tiền của hối phiếu có hai dạng trả tiền ngay và trả tiền sau. Ngày nay có xu hướng mới trong việc chuyển dịch các thương phiếu là việc tăng cường sử dụng các công cụ phi vật chất ( như hối phiếu trên băng từ...)
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA354 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

Tên tài liệu
 Mã tài liệu
 Ngày đăng
 Lượt xem
 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)