Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu BH02 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Thực trạng về quỹ bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay

Bảo hiểm xã hội ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy ngay từ những ngày đầu khi mới thành lập Nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành và do điều kiện đấu tranh giải phóng dân tộc, điều kiện kinh tế, xã hội đã từng bước được thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực Nhà nước. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2360 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 17-06-2012 01:39:57 PM
Mã Tài liệu
BH02
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
1. Sự tất yếu khách quan hình thành bảo hiểm xã hội.
Trong cuộc sống, con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần, hay nói một cách khác mỗi con người đều phải lao động để nuôi sống bản thân và tồn tại trong xã hội. Trong thực tế không phải lúc nào cuộc sống và lao động cũng đều thuận lợi, có thu nhập thường xuyên và mọi điều kiện sinh sống bình thường, mà có rất nhiều trường hợp gặp khó khăn, bất lợi phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập như bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động, mắc các bệnh do nghề nghiệp gây nên hoặc theo đúng quy luật khi tuổi già không còn khả năng lao động. Khi rơi vào các trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động nói trên, các nhu cầu cấp thiết của cuộc sống con người không vì thế mà mất đi. Ngược lại còn đòi hỏi tăng lên, thậm chí xuất hiện thêm nhu cầu mới như ốm đau cần được chữa bệnh, tai nạn lao động cần có người phục vụ... Bởi vậy, muốn tồn tại con người và xã hội cần phải tìm ra những biện pháp để khắc phục.
Ở xã hội công xã nguyên thủy, do chưa có tư liệu sản xuất, mọi người cùng nhau hái lượm, săn bắn, sản phẩm thu được, được phân phối bình quân nên khó khăn, bất lợi của mỗi người được cả cộng đồng san sẻ, gánh chịu. Chuyển sang xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào bổng lộc của nhà Vua, dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng cộng đồng làng, xã hoặc của những người hảo tâm hoặc một phần từ Nhà nước. Nhưng sự trợ giúp này không đảm bảo thường xuyên và cơ bản.
Cùng với sự phát triển của xã hội, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển, theo đó xuất hiện lao động làm thuê và người làm chủ. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau họ đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi ốm đau, tai nạn, thai sản, tuổi già... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra nên người chủ không phải chi một đồng tiền nào. Nhưng có khi lại xảy ra dồn dập, buộc người chủ phải bỏ ra một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế giới chủ đã dần dần không thực hiện những cam kết ban đầu, dẫn đến việc tranh chấp giữa giới chủ và người lao động. Để giải quyết mâu thuẫn này, đã xuất hiện "bên thứ ba" đóng vai trò trung gian nhằm điều hòa lợi ích giữa giới chủ và thợ. Điều này có ý nghĩa là, thay vì phải chi trực tiếp những khoản tiền lớn đột xuất cho người lao động khi họ gặp bất trắc, giới chủ có thể trích ra thường xuyên hàng tháng một khoản tiền nhỏ dựa trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp những người lao động làm thuê. Số tiền này được giao cho bên thứ ba quản lý được tồn tích dần thành một quỹ. Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn... "bên thứ ba" sẽ chi trả theo cam kết không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không muốn. Như vậy, một mặt giới chủ đỡ bị thiệt hại về kinh tế, mặt khác người lao động làm thuê được đảm bảo chắc chắn bù đắp một phần thu nhập khi bị ốm đau, tai nạn và khi về già. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, năng suất lao động đòi hỏi cần được tăng lên, dẫn đến "rủi ro" lao động càng lớn. Lúc này giới thợ luôn mong muốn được bảo đảm nhiều hơn, còn ngược lại giới chủ lại mong muốn phải chi ít hơn, tức là phải đảm bảo cho giới thợ ít hơn, do đó việc tranh chấp về lợi ích lại xảy ra. Trước tình hình đó Nhà nước đã phải can thiệp và điều chỉnh. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, giới chủ buộc phải đóng thêm, đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự bảo đảm cho chính mình. Cả giới chủ và giới thợ đều cảm thấy mình được bảo vệ. Các nguồn đóng góp của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nước đã hình thành nên Quỹ bảo hiểm xã hội. Do tập trung nên quỹ có khả năng giải quyết các phát sinh của rủi ro cho tập hợp người lao động trong toàn xã hội.
Như vậy sự ra đời của bảo hiểm xã hội là một tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai và để đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, đòi hỏi bảo hiểm xã hội  ngày càng phải được củng cố và hoàn thiện trong mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Cùng với sự ra đời của bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã hội cũng được hình thành như một tất yếu, tuy nhiên tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị- xã hội của mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định mà quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành sớm hay muộn, sự hỗ trợ của Nhà nước nhiều hay ít. Song nhìn chung quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, của người chủ sử dụng lao động và người lao động, đồng thời có sự bảo trợ của Nhà nước.
 
          2. Thời kỳ trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước 1961):
 
                Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và suốt trong thời kỳ kháng chiến, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ...Về mặt luật pháp được thể hiện trong các văn bản sau:
     - Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của Chính phủ.
     - Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức.
     - Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ về quy chế công nhân.
          Các văn bản này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm xã hội, song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và kinh tế khó khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ. Về nội dung chưa thống nhất giữa khu vực hành chính và sản xuất, giữa công nhân kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng, các khoản chi về bảo hiểm xã hội  lẫn với tiền lương, chính sách đãi ngộ mà chưa xây dựng theo nguyên tắc hưởng theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN, ngoài ra các văn bản lại chưa hoàn thiện và đồng bộ, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện. Một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đến đời sống của đông đảo công nhân viên chức như chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, thôi việc, chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp chưa được quy định.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu BH02 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)