Chuyên cung cấp tài liệu


Từ khóa cần tìm:
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ và gửi mã thẻ cào cùng với địa chỉ Email của bạn và mã tài liệu T101 đến số điện thoại sau đây: 0988.44.1615  

Sau khi nhận được thông tin tôi sẽ gửi tài liệu vào mail cho bạn ngay và thông báo cho bạn biết

Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam

Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mục tiêu quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn nhân lực chính là chìa khoá của sự thành công. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ chính là nhân tố đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Với một nước đang ở trình độ thấp kém phát triển như nước ta hiện nay không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Thông tin chi tiết
Số lượt xem
2124 Lượt xem
Cú pháp nhắn tin
Ngày đưa lên
Đăng ngày 08-05-2012 02:33:59 PM
Mã Tài liệu
T101
Tổng điểm Đánh giá
0 điểm
Chia sẻ
Cho điểm tài liệu này
1 2 3 4 5
Đặt hàng
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
1. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự phát triển kinh tế xã hội.
a. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn  lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Cho đến nay, lịch sử loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là công xã nguyên thủy, nô lệ phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong quá trình lao động sản xuất, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên - lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa với người người tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ lịch sử loài người, là quy luật biến đổi phát triển của các phương thức sản xuất. Trước hết ta tìm hiểu về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất đó là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật mà trong mối quan hệ với nhau tạo thành sức sản xuất của xã hội. Như Mác đã nói lực lượng sản xuất bao gồm nhân tố vật chất đó là tư liệu sản xuất (bao gồm tư liệu lao động. Trong quá trình sản xuất sức lao động của con người và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Người lao động chính là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, đồng thời cũng chính họ là người sáng tạo ra công cụ lao động. Công cụ lao động là nhân tố quan trọng trong lực lượng sản xuất. Nó là khí quan vật chất "nối dài" nhân lên sức mạnh của con người trong quá trình lao động biến đổi thế giới tự nhiên.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Trong quá trình sản xuất vật chất, ngoài quan hệ giữa con người với tự nhiên còn là mối quan hệ giữa người với người. Đó chính là quan hệ sản xuất. Quan hệ này được phân tích theo hai giác độ
Xét trong quá trình tái sản xuất xã hội đó là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất phân phối trao đổi và tiêu dùng.
Nếu phân tích trên 3 lớp quan hệ đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý sản xuất quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba quan hệ này có tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của đời sống xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, chúng tồn tại khách quan độc lập với ý muốn chủ quan của con người.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng trong mỗi quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ đó vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất bởi vì nó là nội dung vật chất của quá trình đó. Tính quyết định đó thể hiện là tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có thì cũng cần có một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp nhằm bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời những biến đổi trong nội dung vật chất của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến khả năng biến đổi của các quan hệ sản xuất.
Với tư cách hình thức kinh tế của quá trình sản xuất thì quan hệ sản xuất lại có vai trò ảnh hưởng trở lại với lực lượng sản xuất. Sự tác động này biểu hiện trên hai khả năng với nhu cầu khách quan của việc bảo tồn, sử dụng và khai thác có hiệu quả các lực lượng sản xuất và do đó có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong trường hợp ngược lại thì nó lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố như sự tích lũy dần kinh nghiệm mà trong thời đại ngày nay với sự tác động trực tiếp và nhanh chóng của các tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển. Nhưng sự biến đổi và phát triển đó trong một giới hạn nhất định thì chưa tạo ra  nhu cầu khách quan của sự biến đổi các quan hệ sản xuất. Khi sự biến đổi đó tới một giới hạn nhất định cả về số lượng và chất thì tất yếu sẽ đặt ra nhu cầu khách quan là cải cách, cải tổ và cao hơn là một cuộc cách mạng tới tận cơ sở quan hệ sản xuất tư liệu chủ yếu.
Tuy nhiên những quan hệ sản xuất không tự nó biến đổi mà nó cần đến những cuộc cải cách; cách mạng trên phương diện chính trị và thể chế Nhà nước, cơ chế Nhà nước vì rằng những quan hệ sản xuất bao giờ cũng mang một hình thức pháp lý, chính trị văn hóa.
Như vậy một yêu cầu khách quan được đặt ra có tính nguyên tắc đối với các quá trình xác lập, hoàn thiện những quan hệ sản xuất phải dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có.
Ở nước ta đổi mới đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy luật này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất nước ta. Một quan hệ sản xuất tiên tiến không phù hợp với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất, nó đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất nước ta trong một thời gian dài. Từ đổi mới 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nước ta đã lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bởi lẽ trình độ lực lượng sản xuất nước ta còn thấp kém, không đồng đều. Sự không đồng đều về trình độ của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự đa dạng phong phú của các quan hệ sản xuất.
b. Lực lượng sản xuất xã hội là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại lịch sử xã hội.
Trong những hang đá lâu đời nhất, người ta đã tìm thấy những công cụ và những vũ khí bằng đá. Việc sử dụng và sáng tạo những tư liệu lao động tuy đã có mầm mống ở một vài loài vật nào đó nhưng vẫn là đặc trưng nổi bật nhất của lao động con người. Con người đã phát triển tư liệu lao động lên một trình độ cao hơn, ngày càng đáp ứng tốt hơn quá trình sản xuất. Sản xuất phát triển trong tất cả các ngành làm cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu hơn số tư liệu cần thiết cho sinh hoạt của họ, làm tăng sản lượng  lao động hàng ngày mà mỗi thành viên của thị tộc, của công xã gia đình hoặc 1 vợ 1 chồng.
Trong lúc của cải làm ra nhiều, mở rộng phạm vi sản xuất, tư hữu xuất hiện thì ở những điều kiện lịch sử nhất định sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên tất nhiên sẽ đưa đến chế độ nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành 2 giai cấp chủ nô và nô lệ. Kiểu sản xuất tập thể hay hợp tác theo lối nguyên thủy rõ ràng là sự tất yếu của từng cá nhân riêng lẻ chứ không do xã hội hóa tư liệu sản xuất.
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại  VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu T101 đến số điện thoại: 0988.44.1615 Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Tài liệu này không có hình ảnh khác

Tài liệu cùng loại

 
(Chú ý: Website đang trong giai đoạn hoạt động thử nghiệm, đang định xin giấy phép MXH của Bộ TT & TT)
Lên đầu trang
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)