Về cội nguồn nho giáo của những lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh
- Thứ năm - 16/10/2008 20:10
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
HỒ
CHÍ MINH ĐƯỢC VÀO LUYỆN TRONG NHO GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC KHI TIẾP XÚC VỚI VĂN HOÁ
ÂU TÂY VÀ VĂN HOÁ XÔ VIẾT:
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến
Liên Xô, Nguyễn Aùi Quốc (sau 1941 về nước lãnh đạo Cách mạng giải phóng dân
tộc mới đổi tên Hồ Chí Minh) tự giới thiệu: Tôi xuất thân từ một gia đình nhà
Nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng. Rồi tại Đại hội Quốc tế
cộng sản năm 1935, Nguyễn Aùi Quốc lại ghi trong lý lịch: Thành phần gia đình
nhà nho.
Qủa vậy, gia đình Hồ Chí Minh là một
gia đình Nho học. Thân sinh, cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng trong kỳ thi Hội
năm 1901. Đương thời, người đỗ đạt có thể làm quan cai trị cả một vùng, nhưng
giàu lòng nhân ái, lại năng nợ non sông, cụ từ quan đi làm thuốc chữa bệnh cho
dân nghèo và dạy chữ nho. Huyện Nam Đàn quê hương Hồ Chí Minh, nổi tiếng là nghèo mà ham học. Ở đó ai cũng biết
câu nói: Có chí làm quan, có gan làm giàu. Như vậy làm giàu là một sự liều lĩnh
trái với lương tâm. Làm quan thì phải kiên trì học hành, dùi mài kinh sử, nghèo
mà vinh quang. Cả huyện Nam Đàn đâu đâu cũng có những người đỗ đạt, nhưng không
làm quan hoặc làm quan mà thanh liêm vì dân. Phan Bội Châu là một ví dụ. Đặng
Nguyên Cẩn thân sinh học giả Đặng Thai Mai ở huyện Thanh Chương kề bên cũng là
một ví dụ.
Cần nói rõ là cuối thế kỷ 19 đầu thế
kỷ 20, khi mà thực dân Pháp ra sức đàn áp mọi sự chống đối để áp đặt nền thống
trị của chúng thì ở Việt Nam vẫn có hai hạng nhà nho. Một bên gồm các kẻ sĩ
trọng nhân, trọng dân được coi là chân nho như Nguyễn Hữu Huân, Phan Đình
Phùng, Trần Quý Cáp¦ bị thực dân chặt đầu, đào mồ. Một bên nữa cũng là nhà nho
nhưng là ngụy nho, hay nói như các nhà nghiên cứu Trung Quốc là dương nho,
âm Pháp. Họ cũng nói nhân nghĩa nhưng quyền mưu cơ biến, móc ngoặc với bọn
thực dân để bán nước hại dân, đục nước béo cò, như Nguyễn Thân đào mồ Phan Đình
Phùng, đốt xác bắn ra biển. Hay như Phạm Ngọc Quát chặt đầu Trần Quý Cáp để được
thưởng công.
Vùng Nghệ An Hà Tĩnh là vùng nổi tiếng
Nho học “ trước khi nổi tiếng là vùng Cách mạng Cộng sản Hồ Chí Minh tự giới
thiệu gia đình mình theo đạo Nho, các thanh niên đều học đạo Nho là chỉ chân nho, chính nho trái ngược với ngụy
nho, tà nho.
Nguyễn Sinh Công (tên hồi nhỏ của Hồ
Chí Minh) và người anh Nguyễn Sinh Khiêm đã được cha dạy vỡ lòng chữ Hán. Nhập
môn là sách Tam thiên tự, sau đó là Tam tự kinh mà các thế hệ Việt Nam đầu lấy
làm sách vỡ lòng.
Năm tuổi (1895) Nguyễn Sinh Công theo
cha vào sống ở Huế. Người anh được đổi tên là Nguyễn Tấn Đạt và em là Nguyễn
Tất Thành để đến trường (tên để đi học gọi là tên chữ “ tự). Sáu năm sau, năm
1901 mẹ mất, Tất Thành về sống ở quê ngoại. Sau đó 3 năm (1904) lại vào Huế lần
thứ 2 và học trường tiểu học Đông Ba hai năm, rồi thi đỗ vào trường Quốc học
Huế. Hai năm sau vì tham gia cuộc đấu tranh chống thuế mà bị đuổi học. Người đi
vào phía Nam vào dạy ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) một năm rồi vào Sài Gòn
xin học ở trường công nhân hàng hải Ba Son để tìm cách đi sang châu Aâu tìm
hiểu thế giới. Tại đây Người gặp ông chủ tàu Latouche Tréville rồi xin làm bồi
bàn trên tàu. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Người theo tàu rời bến Nhà Rồng “ Sài
Gòn bắt đầu cuộc sống Tây du 30 năm, qua hơn 10 nước, để đến 1941 trở về Cao
Bằng phát động cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc (4).
Nhắc qua vàinét tiểu sử Hồ Chí Minh để
khẳng định một điều: Người xuất thân từ nhà Nho. Sự giáo dục vỡ lòng tuổi thơ
là giáo dục nho học. Đó chính là sự dạy dỗ của nhà nho Nguyễn Sinh Sắc, của môi
trường Quốc học ở cố đô Huế cũng như trường Hán học Dục Thanh ở Phan Thiết. Sau
này, Người tiếp thu văn hoá Aâu Mỹ, văn hoá Nga xô viết và cũng rất thành đạt.
Chứng cớ là các truyện ký viết bằng tiếng Pháp của Người được nhà văn Pháp
Vaillant Coutourier thừa nhận. Người viết báo bằng tiếng Nga, coi nhân văn vĩ
đại Léon Tolstoi là thầy và bắt chước ông viết một số truyện ngắn. Mặc dù vậy,
chữ Hán và Nho học là nét vẽ đầu tiên trên tâm hồn trẻ thơ của Người.
Đương nhiên, chữ Hán và Nho học nói ở đây đã được tiếp biến qua sự sàng lọc
của tâm thức văn hoá Việt Nam. Bởi vì, nói như Phạm Văn Đồng: 1000 năm Bắc
thuộc, Việt Nam đã tiếp biến văn hoá Trung Hoa mà chủ yếu là chữ Hán và Nho
giáo. Từ chữ Hán, Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm và từ Nho giáo sáng tạo ra
Nho học Việt Nam (5).
Trong báo cáo khoa học : Hồ Chí Minh
với văn hoá Trung Quốc đọc tại hội thảo quốc tế Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới năm 1990, tôi có nhận định: Hồ Chí Minh chỉ
tiếp thu Nho giáo nguyên thuỷ (tức Khổng Mạnh) mà ít nói đến Hán Nho, Tống Nho,
và trong 4 vế tư tưởng chính trị “ đạo đức của Khổng Mạnh là Tu thân, Tề gia,
Trị quốc, Bình thiên hạ, người chỉ nhấn mạnh vế thứ nhất là Tu thân.
Điều này càng được khẳng định vì qua
sự nghiên cứu ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống văn hoá, tôi thấy Nho
giáo nguyên thuỷ mang nhiều yếu tố nhân văn và dân chủ nhất. Đồng thời, cũng có
thể xem Nho giáo nguyên thuỷ như một thứ lý thuyết về luân lý của phương Đông,
răn dạy con người sống đúng đạo, có trách nhiệm. Đó là những tín hiệu rất gần
gũi với văn hoá bải địa Việt Nam. Nếu đạo gốc của người Việt cổ là đạo thờ cúng
tổ tiên thì chữ Trung chữ Hiếu của Khổng Tử đã đáp ứng yêu cầu tâm linh đó.
Trước công nguyên “ nghĩa là trước khi
Nho học vào Việt Nam, tư tưởng của người Việt bản địa là gì? Đó là vấn đề
nghiên cứu và trước hết cần nhiều cứ liệu văn vật, văn hiến và cả sự sưu tầm ca
dao dân ca cổ mà hiện nay vẫn rất sơ sài.
Mặc dù vậy, có phần chắc là trước khi
tiếp biến đạo Nho thì tôn giáo của người Việt là Bàlamôn giáo và Phật giáo
nguyên thuỷ. Người Việt sống gần gũi với thiên nhiên, sùng bái thần núi và thần
nước. Trong bối cảnh đó, những giào điều có định hướng chính trị rõ rệt của Hán
Nho hầu như là một sự ràng buộc. Bởi vậy nó chỉ tồn tại ở tầng lớp trên, ở nhà
quan, còn với dân chúng lớp dưới thì tồn tại một dòng nước ngược. Bên cạnh câu
hát Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa thí quét lá đa, còn có câu hát
Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa. Bên cạnh tam tòng
thì có câu ca dao Con ơi, mẹ muốn lấy chồng.
Người Việt chỉ tiếp nhận những giáo lý
thích hợp với truyền thống của mình để làm giàu có thêm nền văn hoá của mình.
Đó là một nét đặc sắc của lịch sử văn hoá dân tộc. Những giáo lý về phẩm chất
người quân tử, trượng phu, hào kiệt, những chuẩn tắc đạo đức trong quan hệ giữa
người với người mà các ông đồ nho dạy cho học trò là phù hợp với đạo lý vốn có
của người Việt. Sự tiếp biến các giáo lý đó đã tạo nên một nền Nho học Việt
Nam, có cội nguồn Nho giáo Trung Quốc nhưng lại mang sắc thái Việt Nam. Tuổi thơ
của Nguyễn Tất Thành, những năm tháng ở trường Dục Thanh đã để lại dấu ấn sâu
sắc trong tâm hồn người yêu nước Nguyễn Aùi Quốc.
III
NHỮNG LỜI DẠY CỦA NGƯỜI CÓ CỘI NGUỒN NHO GIÁO VIỆT NAM nên đã khéo léo đưa chân
lý cách mạng đến với người dân bình thường bằng cách nói thân thuộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng những từ
ngữ, những mệnh đề của Khổng Mạnh vốn rất thân thuộc với truyền thống văn hoá
Đại Việt để thức tỉnh dân tộc, truyền cho nhân dân ý thức tự cường để đứng lên
làm chủ đất nước.
Trước hết, Người hay nhắc đến thế giới
Đại đồng với thuộc tính cơ bản của nó là Tứ hải giai huynh đệ. Chúng ta đầu
biết Đại đồng là một nội dung quan trọng trong tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo
đức và tư tưởng giáo dục.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước
hết được thể hiện ở lý tưởng về một thế giới Đại đồng. Tư tưởng này được nói rõ
trong thiên Lễ vận thuộc Kinh lễ. Đạo đức lớn được thực hành thì thiên hạ là
của chung. Kén chọn kẻ có tài đức ra làm việc. Giảng giải điều tín nghĩa, sửa
trị điều hoà mục. Cho nên mọi người không riêng thân cha mẹ mình, không riêng
yêu con cái mình, khiến người già cả có chỗ sử dụng năng lực, các thiếu niên được
nuôi dạy khôn lớn. Thương người goá bụa, thương kẻ mồ côi và những người già
không nơi nương tựa. Người tàn tật phải có chỗ nuôi dưỡng, con trai đều có nghề
nghiệp, con gái đều có chồng con. Như vậy thì của cải vứt bỏ dưới đất cũng
không ai nhặt mà cũng không cần thiết phải cất giữ cho riêng mình. Còn về năng
lực thì e không có cách gì để thi thố mà không cần phải giữ làm của riêng. Do
đó mọi âm mưu đều bị mai một mà không thể xảy ra, mọi hành vi trộm cắp, gây
rối, giặc cướp đều không thể nổi dậy, cửa ngõ không cần đóng. Như thế gọi là
Đại đồng.
Trong bài Le Grand Confucius (Đức
Khổng Tử vĩ đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày 15/05/1921 Nguyễn Aùi
Quốc (khi đó mới 31 tuổi) đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau:
Đức Khổng Tử vĩ đại (năm 551 trước
Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về của cải.
Người nói tóm lại là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng trong thiên hạ. Người ta không
sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng (6).
Có thể thấy Khổng Tử hướng tới một xã
hội lý tưởng, thiên hạ như gia đình, mọi người coi nhau như anh em một nhà, cùng
hưởng thụ các quyền lợi cùng có trách nhiệm với nhau. Trong những ngôn từ rải
rác đó đây, Khổng Tử quan niệm thời xa xưa đã tồn tại một xã hội như vậy, nhưng
do lễ nhạc nhà Chu suy vi, nên xã hội ngày một xấu đi. Oâng chủ trương khôi
phục lễ nhạc nhà Chu để xây dựng một thế giới Đại đồng. Lý tưởng chính trị đó
của ông được một nhà tư tưởng cận đại là Khang Hữu Vi thuyết giải trong sách
Đại đồng thư. Người Việt Nam, nhấ là đầu thế kỷ, thường nói đến thế giới Đại
đồng chính là qua sách vở Tân thư của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu.
Tất nhiên, Đại đồng là gì cũng không
ai giải thích được rõ ràng, có điều nó gắn với thuộc tính Tứ hải giai huynh
đệ là một cách sống rất gần gũi với nhân sinh quan người Việt cổ thể hiện qua
câu ca dao có từ thời Hai Bà Trưng:
Nhiễu
điều phủ lấy giá gương
Người
trong một nước phải thương nhau cùng
Hồ Chí Minh khi đã trở thành lãnh tụ
dân tộc rất thích câu ca dao này. Có thể đi ngược lên trên một thời gian, vào
khoảng 1940-1945 chính người đã dịch lời bài ca của Quốc tế cộng sản và dùng từ
Đại đồng để dịch từ Internationale.
Điều lý thú là năm 1965 khi đó chủ
tịch Cộng hoà nhân dân Trung Hoa hồi đó là Lưu Thiếu Kỳ, Hồ Chủ Tịch đã đọc hai
câu thơ:
Quan
sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương
vô sản đều là anh em.