Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đăng ngày 17-07-2012 Lúc 03:23'- 2318 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
CHƯƠNG 1:
Lý luận chung về công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 
 
1.1.         Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài .
        1.1.1.Khái niệm và đặc điểm dự án đầu tư.
 
Đầu tư là một hoạt động bỏ vốn với hy vọng thu lợi trong tương lai. Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật, hậu quả và hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư đòi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án đầu tư. Có nghĩa là mọi công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu quả mong muốn.
    Dự án đầu tư  là một tập hợp hoạt động kinh tế đặc thù nhằm tạo nên một mục tiêu cụ thể một cách có phương pháp trên cơ sỏ những nguồn lực nhất định.
Một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính:
+  Mục tiêu của dự án được thể hiện ở hai mức:
-         Mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế xã hội do thực hiện dự án đem lại.
-         Mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án
+  Các kết quả: là những kết quả cụ thể, có định lượng, được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án . Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án
+  Các hoạt động: là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra các kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một lịch biểu và  trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án .
+  Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án . Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án .
Trong 4 thành phần trên thì các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án . Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo dõi các đánh giá kết quả đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực tiếp tới việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu phải được đặc biệt quan tâm.
 
     1.1.2.Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài .
        1.1.2.1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
                   ( FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào nước sở tại vốn hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế bao gồm đầu tư trực tiếp ( FDI ),đầu tư qua thị trường chứng khoán (porfolio), cho vay của các tổ chức kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại ), nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ( ODA). Vay thương mại lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài trong tương lai. Viện trợ bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại không trở thành nợ nước ngoài nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục và cứu trợ. Đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng không trở thành nợ nhưng sự thay đổi đột ngột trong hành động ( bán chứng khoán, rút tiền về nước) của nhà đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn, gây biến động tỷ giá và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) cũng là hình thức đầu tư  không trở thành nợ. Đây là nguồn vốn có tính chất “bén rễ” ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên dễ thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế.
FDI có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư , quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi . Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị , không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
+ Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%, 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án .
+ Thông qua đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Đây là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
+ Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án  cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Do những đặc điểm và thế mạnh riêng có như ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên; bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân do có quyền lợi gắn chặt với dự án. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư . Cụ thể là:
+ Đối với các nước đầu tư , đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư , hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng, được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
+ Đối với các nước nhận đầu tư : hiện nay có hai dòng chảy của vốn đầu tư  nước ngoài. Đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển.
-   Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI, các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty, doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách , tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
-    Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này. Theo thống kê của Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp của các nước đang phát triển chiếm khoảng 35- 38% tổng số lao động.
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá_ thời kỳ mà thông thường đòi hỏi đầu tư  một tỷ lệ vốn lớn hơn các giai đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự cung ứng từ bên trong. FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển, tránh tình trạng tích luỹ quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng xảy ra.
Theo sau FDI là máy móc, thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động marketing được mở rộng không ngừng. Do các công ty tư bản độc quyền quốc gia đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển mà các nước này có thể bước vào thị trường xa lạ, thậm chí có thể xem như “ lãnh địa cấm kỵ ” đối với họ trước kia.
FDI giúp tăng thu ngân sách nhà nước thông qua thu thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư , bên cạnh ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là:
-    Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.
-    Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sẽ xảy ra.
 
 
       1.1.2.2.Các hình thức dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài .
 
Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại dự án đầu tư theo quy định của luật đầu tư nước ngoài về nội dung, hình thức đầu tư . Các hình thức đầu tư nước ngoài cơ bản là:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
+ Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao ( BOT – BTO – BT )
   
1.1.2.2.1.Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
 
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa các bên hợp doanh quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.
 
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có các đặc điểm sau:
-         Về đối tượng áp dụng hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Việc chọn hình thức đầu tư  do người đầu tư  quyết định. Tuy vậy Nhà nước cũng có những quy định để hướng dẫn người đầu tư . Tại Việt Nam, nhà nước quy định việc xây dựng, kinh doanh mạng viễn thông quốc tế, viễn thông nội hạt chỉ thực hiện theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Một số lĩnh vực khác có thể áp dụng hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc doanh nghiệp liên doanh như: khai thác chế biến dầu khí, xây dựng kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất; xây dựng; vận tải; du lịch lữ hành… và những lĩnh vực không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện theo quy định tại Nghị định số 10/1998/NĐ-CP.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)