Chính sách về lãi xuất và các chính sách lãi xuất được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua
Đăng ngày 17-07-2012 Lúc 02:27'- 1995 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
Phần I : 
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
I - LÃI SUẤT – KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT.
Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm đề đầu tư. Sự thay đổi lãi suất có thể dẫn tới  sự thay đổi quyết định của mỗi doanh nghiệp: vay vốn để mở rộng sản xuất hay cho vay tiền để hưởng lãi suất, hoặc đầu tư vào đâu thì có lợi nhất. Thông qua những quyết định của các cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước.
1. Các lý thuyết kinh tế về bản chất của lãi suất
1.1. lý thuyết của C.Mác về lãi suất.
* Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế hàng hoá TBCN
Qua qúa trình nghiên cứu bản chất của cntb Mác đã vạch ra rằng quy luật giá trị thặng dư tức giá trị lao động không của công nhân làm thuê tạo ra là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghia tư bản và nguồn gốc của mọi lãi suất đều xuất pháttừ giá trị thặng dư.
Theo Mác, khi xã hội ptr thì tư bản tài sản tách rời Tư bản chức năng, tức là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không thay đổi. Vì vậy, trong xã hội phát sinh quan hệ dho vay và đi vay, đã là tư bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dụng, tư bản cho vay được hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm gọi là lợi tức.
Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải cho nhà tư bản vay. Trên thực tế nó là một bộ phận của lnh bình quân mà các nhà tư bản công thương nghiệp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho vay. Do đó nó là biểu hiện quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được mở rộng trong lĩnh vực phân phối và giơí hạn tối đa của lợi tức là lnh bình quân, còn giới hạn tối thiểu thì không có nhưng luôn lớn hơn không.
Vì vậy sau khi phân tích côg thức chung của tư bản và hình thái vận động đầy đủ của tư bản Mác đã kết luận:”Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản bị tư bản – chủ ngân hàng chiếm đoạt”.
* Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế XHCN
Các nhà kinh tế học Mác xít nhìn nhận trong nền kinh tế XHCN cùng với tín dụng, sự tồn tại của lãi suất và tác động của nó do mục đích khác quyết định, đó là mục đích thoả mãn đầy đủ nhất các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội. Lãi suất không chỉ là động lực của tín dụng mà tác dụng của nó đối với nkt phải bám sát các mục tiêu kinh tế. Trong XHCN không còn phạm trù tư bản và chế độ người bóc lột người song điều đó không có nghĩa là ta không thể xác định bản chất của lãi suất. Bản chất của lãi suất trong xã hội chủ nghĩa là “giá cả của vốn cho vay mà nn sd với tư cách là công cụ điều hoà hoạt đọng hạch toán kinh tế ”
Qua những lãi suất luận trên ta thấy các nhà kinh tế học Mác xít đã chỉ rõ nguồn gốc và bản chất lãi suất. Tuy nhiên quan điểm của họ không thể hiện được vai trò của lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác. ngày nay trước sự đổ vỡ của hệthống XHCN, cùng với chính sách làm giàu chính đáng , chính sách thu hút đầu tư lâu dài… đã không phù hợp với các chính sách trước đây vì nó tôn trọng quyền lợi người đầu tư, người có vốn, thừa nhận thu nhập từ tư bản.
1.2 Lý thuyết của J.M. Keynes về lãi suất:
J.M. KEYNES (1833-1946) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh cho rằng lãi suất không phải là số tiền trả công cho việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu vì khi tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả khi trường hợp tích trữ rất nhiều tiền trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Vì vậy: “Lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản”. lãi suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìcan với của cải, tiền tệ.”
1.3 Lý thuyết của trường phái trọng tiền về lãi suất:
M.Friedman, đại diện tiêu biểu của trường phái trọng tiền hiện đại, cũng có quản điểm tương tự J.M.KEYNES rằng lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ. Tuy nhiên quan điểm của M. Friedman khác cơ bản với Keynes ở việc xác định vai trò của lãi suất. Nừu Keynes cho rằng cầu tiền là một hàm của lãi suất còn M.Friedman dựa vào nghiên cứu các tài liệu thực tế thống kê trong một thời gian dài, ông đi đế khẳng định mức lãi suất không có ý nghĩa tác động đến lượng cầu về tiền mà cầu tiền biểu hiện là một hàm của thu nhập và đưa ra khái niệm tính ổn định cao của cầu tiền tệ.
Có thể thấy rằng : quan điểm coi lãi suất là kết quả hoạt động của tiền tệ đã rất thành công trong việc xác định các nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng. Tuy nhiên hạn chế của cách tiếp cận này là suy bản chất của lợi tức là bản chất của tiền và dừng lại ở việc nghiên cứu cụ thể.
Tóm lại, lãi suất là tỷ lệ % giữa khoản tiền người đi vay phải trả thêm cho người cho vay trên tổng số tiền vay đầu một thời hạn nhất định để được sd tiền vay đó.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)