Một số giải pháp Marketing cho sản phẩm trà LEROS thâm nhập vào thị trường Việt Nam
Đăng ngày 21-06-2012 Lúc 04:21'- 1971 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
1. Ý nghĩa của việc lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường quốc tế
   Điều quan trọng hơn cả đối với ban giám đốc của một công ty kinh doanh trên thị trường quốc tế là phải lựa chọn quyết định liên quan đến các cách thức thâm nhập vào từng thị trường nước ngoài riêng biệt. Một khi đã chọn được các phương thức thâm nhập thì mới có thể thực thi một loạt các biện pháp marketing có liên quan. Quả thật khi đã chọn đựơc một cách thức để thâm nhập vào thị trường một nước ngoài nào đó thì nhà kinh doanh mới có thể xác định một cách căn bản toàn bộ chương trình marketing quốc tế liên quan. Do đó trước khi nghiên cứu để mở rộng thị trường, công ty phải dành thời gian và công sức cho quá trình lựa chọn quyết định thâm nhập nước ngoài.
2. Các phương thức tham gia thị trường quốc tế

2.1. Xuất khẩu

Xuất khẩu hàng hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị trường quốc tế thông qua hoạt động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất từ trong nước ra thị trường bên ngoài. Phần lớn các công ty bắt đầu việc mở rộng ra thị trường thế giới với tư cách là những nhà xuất khẩu và sau đó mới chuyển từ phương thức này sang phương thức khác để phục vụ thị trường nước ngoài. Việc xuất khẩu có hai ưu điểm rõ net: tránh được chi phí đầu tư cho các hoạt động sản xuất ở nước sở tại, mà các chi phí này thường là đáng kể và có thể thực hiện được lợi thế chi phí và lợi thế vị trí. Bằng việc sản xuất sản phẩm ở một địa điểm tập trung và sau đó xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài khác, công ty có thể thực hiện lợi thế quy mô đáng kể qua khối lượng bán cho thị trường toàn cầu của mình.
Hiệu quả của chiến lược xuất khẩu là nhằm hướng tới làm cho sản phẩm hàng hoá thích ứng và thoả mãn được các nhu cầu của các khách hàng và sự ưa thích của thị trường (hoặc không bị thay đổi nếu phù hợp với thị trường). Đồng thời, làm cho các chính sách giá cả, phân phối và truyền thông được liên kết chặt chẽ trong một chiến lược marketing tổng thể.
Tuy nhiên, xuất khẩu cũng có một số nhược điểm. Thứ nhất, các sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ cơ sở của công ty ở chính quốc có thể không phù hợp với nhu cầu và điều kiện thị trường địa phương. Thứ hai, chi phí vận chuyển cao có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không kinh tế, đặc biệt trong trường hợp các sản phẩm cồng kềnh. Các hàng rào thuế quan cũng có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không kinh tế. Cuối cùng, những rủi ro bắt nguồn từ nguyên nhân ít kinh nghiệm xuất khẩu, ít am hiểu thị trường của các công ty vừa mới bắt đầu xuất khẩu.
Để khắc phục những nhược điểm trên, công ty có thể chuyển giao các hoạt động marketing ở các nước mà họ kinh doanh cho các đại diện đó sẽ hành động theo cách tốt nhất vì lợi ích của công ty. Thường các đại diện cũng chào bán sản phẩm của công ty cạnh tranh và vì thế, sự trung thành bị chia sẻ. Do đó, đại diện nước ngoài có thể thực hiện không tốt hoạt động marketing như công ty tự thực hiện.
Cũng cần thiết phải thấy rõ sự khác biệt giữa hình thức xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu gián tiếp là hình thức khi doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài thông qua các tổ chức độc lập trong nước. Đó là các trung gian bán buôn trong nước, các công ty thương mại, các đại lý đặt trong nước, người mua thường trú, người môi giới xuất nhập khẩu, đại lý xuất khẩu của người sản xuất, công ty quản lý xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu trực tiếp xuất hiện khi doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu trực tiếp cho người mua hay người nhập khẩu ở các thị trường nước ngoài. Có nhiều dạng xuất khẩu trực tiếp như: phòng xuất khẩu của công ty chịu trách nhiệm bán ở thị trường nước ngoài, chi nhánh thương mại, người bán hàng lưu động, đại lý và nhà phân phối đặt ở nước ngoài.
   Hiện nay, hình thức xuất khẩu gián tiếp được các doanh nghiệp áp dụng phổ biến do trong giai đoạn mới tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, khả năng mở rộng thị trường nước ngoài bằng con đường khác còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, hình thức này phù hợp với nguồn lực hạn chế và kinh nghiệm xuất khẩu thấp của các doanh nghiệp.
   Thực vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chỉ tập trung hoạt động của họ chủ yếu trong môi trường sở tại, quen thuộc nên giảm thiểu được những rủi ro tài chính và thương mại. Mặt khác, hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua các trung gian xuất khẩu còn có những ưu điểm khác.
   Thứ nhất, giúp cho người sản xuất thâm nhập nhanh chóng vào thị trường nước ngoài. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty quản lý xuất khẩu -  một hình thức tác nhân trung gian – có nhiều kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài hơn và do đó, giảm bớt được rủi ro gắn liền với việc bán hàng trong môi trường xa lạ.
   Thứ hai, người sản xuất có thể nhận được sự hỗ trợ ngay về tài chính khi các thoả thuận mua bán được thông qua.
   Thứ ba, việc chuyên môn hoá hoạt động trong nước có thể làm tăng hiệu quả của hoạt động đó và tạo ra những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn hơn. Ví dụ, nếu khách hàng nước ngoài đã quan tâm đến một loại sản phẩm của công ty thì họ cũng có thể có nhu cầu mua loại sản phẩm khác do công ty sản xuất. Hơn nữa, đa số người mua thích làm việc chỉ với một số ít người cung cấp nhằm tiết kiệm chi phí giao dịch và các chi phí liên qua đến quá trình mua.
   Bên cạnh sự phân biệt giữa xuất khẩu gián tiếp và trực tiếp, cũng cần thấy rõ sự khác biệt giữa xuất khẩu bị động và xuất khẩu chủ động. Xuất khẩu bị động là doanh nghiệp thụ động trong việc lựa chọn các thị trường xuất khẩu mà chỉ dừng ở việc thực hiện đầy đủ các đơn đặt hàng đột xuất hoặc trông chờ sự khởi xướng từ phía những người mua hay người đại diện nước ngoài. Hầu như các doanh nghiệp chỉ cố gắng sản xuất theo đơn đặt hàng của các trung gian, các hợp đồng gia công chứ chưa đủ năng lực để tìm kiếm thị trường mới. Ngược lại, xuất khẩu chủ động là ký hợp đồng xuất khẩu với các hãng phân phối của nước ngoài. Đó có thể là các nhà nhập khẩu của nước - thị trường cuối cùng hoặc là các tập đoàn, trung tâm phân phối lớn của nước đó.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)