Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ở công ty TNHH Minh Trí
Đăng ngày 20-06-2012 Lúc 10:25'- 3016 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu

                                             Phần I

 
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ TRONG DOANH NGHIỆP
I.MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
Nền kinh tế càng phát triển thì việc tối ưu hoá cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ở tất cả các cấp, các ngành và đối với từng doanh nghiệp  của nền kinh tế quốc dân càng đặt ra cấp thiết. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội. Xuất phát từ vai trò quan trọng của bộ máy quản lý, do đó bất kỳ một doanh nghiệp  nào muốn phát triển thì phảI xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cho phù hợp. Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải dựa trên cơ sở khoa học của nó. Vì vậy, nghiên cứu một số khái niệm cơ bản về quản lý và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý trong nghiệp là cần thiết.
1.Một số khái niệm về quản lý và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý .
1.1.Quản lý .
Vấn đề quản lý được đề cập rất lâu trong lịch sử. Cho đến nay đã có rất nhiều học thuyết khác nhau về quản lý. Có học thuyết xuất hiện từ thời cổ như Aristot, Platon; có học thuyết của trường phái cổ đIún như A. Smith, D. Ricardo; học thuyết về lao động của C.Mac. Lênin đã từng nói: “khoa học quản lý là công cụ, phương tiện tối quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội của các nước không bị lệ thuộc vào sự khác nhau về ý thức chính trị”. Sau này đi đôi với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của lực lượng sản xuất, chúng ta lại thấy xuất hiện những học thuyết về quản lý trong công nghiệp như F.W.Taylor, Henri Fayol.
Quản lý là một phạm trù có liên quan mật thiết đến phân công và hiệp tác lao động. C.Mac đã coi sự xuất hiện của quản lý như là một kết quả tất yếu của sự chuyển nhiều lao động, nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình lao động xã hội được phối hợp lại. Ông viết: “bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên quy mô khá lớn đều yêu cầu có sự chỉ đạo để đIũu hoà hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phảI làm chức năng chung, tức là chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất. Với những vận động cá nhân của những khí quản độc lập hợp thành cơ sở. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự đIũn kiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”. Như vậy Mac đã chỉ ra rằng chức năng của quản lý thể hiện ở sự kết hợp một cách hợp lý các yếu tố cơ bản của sản xuất, ở chỗ xác lập một sự ăn khớp về hoạt động giữa những người lao động riêng biệt. Nừu chức năng này không được thực hiện thì quá trình hợp lý của lao động hợp tác không thể tiến hành được.
C.Mac viết: “Mọi hình thái sản xuất đều sinh ra những quan hệ quản lý riêng của nó…”. Hoạt động  quản lý trong xã hội sẽ mang dấu ấn của xã hội đó. Nó có mỗi quan hệ chặt chẽ với chế độ sở hữu và các quan hệ kinh tế phát sinh từ chế độ xã hội đó.
Ngày nay, khoa học quản lý càng trở nên quan trọng và có nhiều quan đIúm quản lý khác nhau tùy thuộc vào đối tượng quản lý và phạm vi quản lý.
-Theo lĩnh vực sản xuất: quản lý được hiểu là quá trình tính toán, lựa chọn các biện pháp để chỉ huy, phối hợp, đIũu hành quá trình sản xuất kinh doanh bằng những công cụ quản lý như: kế hoạch định mức, thống kê kế toán, phân tích kinh doanh, thông tin kinh tế … để sản xuất đáp ứng được ba yêu cầu:
+ Yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả và thời đIúm.
+Đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi.
+ Tôn trọng pháp luật Nhà nước.
          - Theo lĩnh vực kinh doanh: quản lý là sự tác động có tổ chức, có tính hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm duy trì tính trồi của hệ thống, sử dụng một cách tốt nhất các tiềm năng cơ hội của hệ thống đó để đưa hệ thống đó đến một mục tiêu đã định trong đIũu kiện môi trường luôn biến động
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Sơ đồ 1:Sơ đồ quản lý
 
Ngoài ra, quản lý có thể hiểu là quá trình phối hợp chỉ huy hoạt động  sản xuất của các khâu, các bộ phận đảm bảo phát huy hết khả năng của doanh nghiệp  để phục vụ cho sự phát triển.
Quản lý còn được hiểu là quá trình tác động một cách có hệ thống, có tổ chức đến tập thể những người lao động trong doanh nghiệp  với nhiệm vụ liên kết những mục tiêu xác đáng kế hoạch phát triển của doanh nghiệp, đến ý đồ về công việc hay hoạt động  có liên quan và đưa ra quyền hạn có thể  làm được để hoàn thành công việc.
Theo quan điểm chung nhất, quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân(trên cơ sở vĩ mô) và doanh nghiệp (trên cơ sở vi mô) bằng một hệ thống các biện pháp kinh tế, xã hội và các biện pháp khác để tạo ra các biện pháp thuận lợi nhất thực hiện mục tiêu đề ra trước đó. Thực chất của quản lý là sự tác động lên hành vi của mỗi cá nhân nhờ đó tạo thành hành vi chung có sức mạnh tạo lên sức mạnh cho cả hệ thống.
* Phân biệt quản lý và quản trị :
Quản trị là một thuật ngữ vừa có nghĩa là quản lý vừa có nghĩa là quản trị nhưng chủ yếu với nghĩa là quản trị. Cho nên về thực chất có thể tạm coi quản lý là thuật ngữ được dùng để chỉ việc quản lý hành chính của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, còn quản trị là thuật ngữ được hiểu là các điều khiểu hoạt động  sản xuất kinh doanh của chủ doanh nghiệp và các chuyên gia quản lý đối với doanh nghiệp  của mình.
Do đó quản trị là sự tác động có tổ chức, có hướng định của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Sơ đồ 2: Sơ đồ quản trị
 
                   Trong đó, chủ thể quản trị có thể là một người, nhiều người; còn đối tượng bị quản trị có thể là người hoặc giới vô sinh (máy móc thiết bị, đất đai…) hoặc giới sinh vật.
          Từ khái niệm về quản lý và quản trị ta thấy giữa chúng có sự giống và khác nhau. Quản lý là khái niệm được hiểu theo nghĩa rộng trong đó bao gồm cả nội dung quản trị. Quản lý là thuật ngữ được dùng đối với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế trong phạm vi cả nước, còn quản trị là thuật ngữ được dùng đối với các cơ sở trong đó có các doanh nghiệp. Vì vậy quản lý và quản trị có điểm chung đều là các hoạt động  quản trị của con người để đạt mục tiêu đặt ra nhưng khác nhau ở nội dung và quy mô của sự tác động.
          Qua đó ta thấy mục đích của quản lý doanh nghiệp  là nhằm phát triển  sản xuất cả về số lượng và chất lượng với chi phí thấp nhất và đạt hiểu quả cao nhất, đồng thời không ngừng cải thiện lao động và nâng cao đời sống cho mỗi thành viên trong doanh nghiệp . Suy cho cùng, quản lý là quản lý con người nên quy mô doanh nghiệp  càng lớn thì quản lý yêu cầu càng cao và thực sự trở thành nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Do đó, quản lý cần phải có tổ chức và có sự phân công giữa các bộ phận cấu thành tổ chức đó.
1.2. Bộ máy quản lý doanh nghiệp 
           Bộ máy quản lý doanh nghiệp  là một hệ thống các bộ phận hợp thành gồm các phòng ban có chức năng, có nhiệm vụ cơ bản giúp cho Giám đốc doanh nghiệp  quản lý và điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh đạt mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất.
          Hệ thống các phòng ban chức năng tạo lên bộ máy quản lý doanh nghiệp. Nhưng nếu để các bộ phận này riêng lẻ không có mối liên hệ nào thì sẽ vô nghĩa, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của quản lý. Do vậy phải đặt các bộ phận này trên một tổ chức nhất định, các bộ phận này phải hoạt động  nhịp nhàng ăn khớp với  nhau.
1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp 
          Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp là một chỉnh thể hợp thành của các bộ phận khác nhau, có mối quan hệ hữu cơ và phục thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá có nhiệm vụ và quyền hạn nhất định, được bố trí theo các khâu, các cấp đảm bảo chức năng quản trị doanh nghiệp  nhằm mục đích chung đã xác  định của doanh nghiệp.
          Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp  là hình thức phân công lao động trong lĩnh vực quản lý. Nó có tác động đến quá trình hoạt động  của toàn bộ doanh nghiệp. Nó một mặt phản ánh cơ cấu sản xuất, mặt khác tác động tích cực trở lại việc phát triển  sản xuất .
        Tóm lại, bộ máy quản lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động  sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp  có bộ máy quản lý hợp lý sẽ đạt hiệu quả cao trong sản xuất. Thêm vào đó một doanh nghiệp  biết phát huy nhân tố con người trong sản xuất thì bộ máy quản lý hoạt động  có hiệu quả và làm cho sản xuất kinh doanh phát triển .
        Sản xuất ngày càng phát triển  thì mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao nó đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban và phân xưởng sản xuất ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất. Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện  cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý được xem như vấn đề trọng tâm của mỗi doanh nghiệp  trong nền kinh tế cạnh tranh. Việc xây dựng và hoàn thiện  cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phải dựa trên những nguyên tắc nhất định và phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản của cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp .
1.4. Nguyên tắc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp 
         Mỗi doanh nghiệp  phải thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau do đó cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp ở từng doanh nghiệp  khác nhau không nhất thiết phải giống nhau. Nó tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp  để xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cho phù hợp. Để xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, doanh nghiệp  cần căn cứ vào các nguyên tắc sau:
                - Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp  phải phù hợp cơ chế quản lý doanh nghiệp  mới,
                 - Cơ cấu đó phải có mục tiêu chiến lược thống nhất
                 - Có chế độ trách nhiệm rõ ràng, quyền hạn và trách nhiệm phải tương xứng với nhau.
                 -  Cần phải có sự mền dẻo  về tổ chức.
                 -  Cần có sự chỉ huy tập trung thống nhất vào một đầu mối.
                 -  Có phạm vi kiểm soát hữu hiệu
                 -  Đảm bảo tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh .
         
 
      1.5. Yêu cầu cơ bản đối với cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp 
       Một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp  được coi là tốt nếu đáp ứng những yêu cầu sau:
                -Tính tối ưu: giữa các khâu, các cấp quản lý phải thiết lập mối quan hệ hợp lý :
                        +Số cấp quản lý phải hợp lý, không thừa không thiếu bộ phận nào.
                        + Không chồng chéo không bỏ sót.
                        + Số cấp quản lý ít nhất.
       Đáp ứng được yêu cầu này cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý có tính năng động cao, luôn đi sát phục vụ sản xuất.
           -Tính linh hoạt:
         Trong cơ chế mới hiện nay, khi nhu cầu thị trường luôn biến động nếu doanh nghiệp  nào không chuyển mình kịp để đáp ứng nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp  đó dễ bị thất bại. Do vậy đòi hỏi doanh nghiệp  phải chủ động linh hoạt thay đổi để thích nghi với bất cứ tình huống nào xảy ra trong cũng như ngoài doanh nghiệp . Nghĩa là khi nhiệm vụ của doanh nghiệp  thay đổi thì bộ máy quản lý của doanh nghiệp  cũng phải phù hợp với sự thay đổi đó.
          - Tính tin cậy:
       Bộ máy này phải đảm bảo độ chính xác của các luồng thông tin lưu động được có tính tin cậy trong quản lý. Đảm bảo thực hiện nghiêm túc chế độ một thủ trưởng trong kinh doanh.
          - Tính kinh tế:
       Trong cơ chế mới các doanh nghiệp  hoạch toán độc lập và do vậy nếu muốn tồn tại thì đòi hỏi doanh nghiệp  làm ăn có lãi. Một trong những biện pháp nhằm góp phần tăng hiệu quả hoạt động  của doanh nghiệp  đó là việc tổ chức một bộ máy sao cho hợp lý nhất. Nghĩa là bộ máy đó không quá cồng kềnh so với nhiệm vụ, tổ chức bộ máy sao cho chi phí quản lý thấp nhất nhưng mang lại hiệu quả quản lý cao nhất.
        1.6.Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp  .
         Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp  là một hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Nó liên kết các mặt công tác của doanh nghiệp, phối hợp các yếu tố tổ chức quản lý doanh nghiệp  về mặt không gian thời gian theo một hình thức kết cấu nhất định xoay quanh mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .Nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: môi trường kinh doanh và thị trường; quy mô của doanh nghiệp  địa bàn doanh nghiệp; đặc điểm quy trình công nghệ; đặc điểm chế tạo sản phẩm , tính chất và đặc điểm sản xuất …nhưng ta có thể quy chúng thành ba nhóm nhân tố sau:
           - Nhóm nhân tố thuộc đối tượng quản lý của doanh nghiệp, thuộc nhóm này bao gồm:
                  + Tình trạng và trình độ phát triển  công nghệ sản xuất của doanh nghiệp
                  + Tính chất và đặc điểm sản phẩm
            Những nhân tố trên biến đổi do đó ảnh hưởng đến thành phần, nội dung những chức năng quản lý và thông qua đó mà ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp
           - Nhóm nhân tố thuộc lĩnh vực quản lý :
                  + Quan hệ sở hữu tồn tại trong doanh nghiệp 
                  + Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các hoạt động  quản lý
                  +Trình độ cơ giới hoá, tự động hoá trong hoạt động  quản lý
                  + Trình độ tay nghề của cán bộ quản lý, hiệu suất lao động của họ.
                  +Quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị lãnh đạo, khả năng kiểm tra của người lãnh đạo đối với hoạt động  của cấp đưới
                  +Chế độ chính sách của doanh nghiệp  đối với đội ngũ quản lý .
                  +Kế hoạch, chủ trương, đường lối đúng như mục đích mà doanh nghiệp  đã đề ra và phấn đấu đạt được.
           - Nhóm nhân tố thuộc cơ chế chính sách của Nhà nước
                  + Kế hoạch , chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
                   + Chế độ chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với doanh nghiệp 
                   + Các bộ luật: Luật doanh nghiệp, Luật công ty, các văn bản, Nghị định, Thông tư dưới luật
         Trên đây là những yếu tố tác động đến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý trong doanh nghiệp. Không có một yếu tố riêng lẻ nào quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý mà cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý chịu ảnh hưởng của hàng loạt các yếu tố.Vì thế trong quá trình xây dựng và hoàn thiện  cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp  cần quan tâm một cách toàn diện đến các nhân tố ảnh hưởng nhằm đạt hiểu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh .
         2. Một số mô hình về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp 
        Quản lý có vai trò rất lớn trong hoạt động  của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp  khác nhau lại có cách thức quản lý khác nhau do vậy mà hình thành nên các mô hình xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp  khác nhau. Lý thuyết và thực tế quản lý doanh nghiệp  đã hình thành nhiều kiểu tổ chức trong doanh nghiệp. Mỗi hệ thống tổ chức doanh nghiệp  là một cách phân chia các cấp quản lý mà ở đó các bộ phận trong doanh nghiệp  liên kết với nhau theo quan điểm phân quyền ra mệnh lệnh.
             2.1 Cơ cấu trực tuyến (cơ cấu đường thẳng)
*Nguyên lý xây dựng cơ cấu :
-         Mỗi cấp dưới chỉ có một thủ trưởng cấp trên trực tiếp,
-         Mối quan hệ trong cơ cấu tổ chức là được thiết lập chủ yếu theo chiều dọc
-         Công việc được tiến hành theo tuyến
           
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)