Công tác quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Việt Nam- Thực trạng và giải pháp
Đăng ngày 17-06-2012 Lúc 02:29'- 1860 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ

QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH

 
I.  Những vấn đề cơ bản về BHXH.
Tính tất yếu khách quan của BHXH.
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn  của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con người để chống lại những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường là trong một nhóm người chung quan hệ huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau trong cuộc sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn.
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông dân không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công nghiệp thì lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn chung họ sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm, ốm đau, tai nạn lao động ... đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai nạn lao động, mất việc... Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính trị của mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động dần được quy định thành các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước.
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời  Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, người được bảo hiểm phải tham gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. BHXH ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952. BHXH ở nước ta đã manh nha hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt Nam như hiện nay.
2. Khái niệm BHXH. 
 Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ mang tính chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp. BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên,  có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
-         Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động, giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động.
-         Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
-         Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.”
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó. 
3. Bản chất và chức năng của BHXH.
3.1. Bản chất của BHXH.
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động khi gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc tuổi già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay được coi là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về bản chất bao gồm những nội dung sau đây:
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát triển. Do vậy trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn thiện của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ thống BHXH của mỗi nước.
BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối quan hệ của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử dụng lao động (bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thường thì do cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động có thể là những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp...), cũng có thể là các rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ...). Đồng thời các biến cố này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp từ nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có thêm sự hỗ trợ của NSNN.
3.2. Chức năng của BHXH.
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ  này dùng để trợ cấp cho người lao động khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh với người lao động ốm đau, già yếu..., giữa những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc, nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã hội.
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, người lao động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái, tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn về đời sống của người lao động và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH.
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,...
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước, song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kì khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách BHXH của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước (NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách năm 1995 của nước ta thì đây thực sự là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có thể quản lí theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau.
5. Các chế độ của BHXH.
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH được xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ước 102 được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định  những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:
-         Chăm sóc y tế.
-         Trợ cấp ốm đau.
-         Trợ cấp thất nghiệp.
-         Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
-         Trợ cấp tuổi già.
-         Trợ cấp thai sản.
-         Trợ cấp tàn tật.
-         Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
 Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
-         Trợ cấp tuổi già.
-         Trợ cấp thất nghiệp.
-         Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
-         Trợ cấp tàn tật.
-         Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, ... Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, ... để quy định các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
     +  Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
     +  Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)