Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta
Đăng ngày 08-05-2012 Lúc 03:09'- 3221 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
I. HỌC THUYẾT VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Hình thái kinh tế - xã hội
+ Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Với từng giai đoạn  phát triển lịch sử nhất định thì ở những giai đoạn đó sẽ tồn tại các mặt đối lập, các quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, lực lượng lao động sinh hoạt khác nhau với phong tục tập quán của các nước trên thế giới cũng khác nhau. Trình độ phát triển khác nhau, mỗi nước có một nền sản xuất, nền kinh tế khác nhau. Nhưng cuối cùng thì đó sẽ là một kiến trúc thượng tầng được hình thành trong hình thái kinh tế - xã hội đó nó cũng có những kết cấu và chức năng cùng các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội.
+ Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng sự kiện rời rạc, những cá nhân riêng lẻ mà xã hội là một chính thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó có những mặt  cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động của xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng tổng thể các mặt của hình thái kinh tế - xã hội.
+ Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu, tìm tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
2. Vai trò của lực lượng  sản xuất
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi hình thành đến nay đã trải qua các giai đoạn phát triển cao thấp khác nhau, tương ứng với mỗi giai đoạn đó là một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, sự vận động và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử là do các qui luật khách quan chi phối đặc biệt là bị chi phối bởi qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất  và trình độ của lực lượng sản xuất. Do đó C.Mác viết “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong đời sống hàng ngày những điều tất yếu mà xã hội nào cũng cần có đó là sản xuất vật chất, sản xuất vật chất có vai trò rất lớn trong cuộc sống con người, nó là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biên các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho đời sống xã hội. Đó là quá trình hoạt động có mục đích, nhằm cải biến những vật liệu tự nhiên làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người, sản xuất vật chất thực hiện trong quá trình lao động, chính trong quá trình lao động mà mỗi người phải liên  kết với nhau để làm và mọi người làm là lực lượng sản xuất sinh  ra từ đây. Quan hệ sản xuất cũng sinh ra khi mọi người dựa vào nhau để làm ra của cải vật chất. Các nhà triết học của xã hội duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội từ ý thức tư  tưởng của con người hay từ một lực lượng  siêu tự nhiên nào đó. Ngày nay nhiều nhà xã hội học tư sản giải thích sự phát triển của xã hội theo quan điểm kỹ thuật. Họ không nói đến các quan hệ kinh tế - xã hội, nguồn gốc sản sinh và thay thế các chế độ xã hội khác nhau tronglịch sử .
+ Ăng - ghen viết: Mác là người đầu tiên “ đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người", nghĩa là tìm ra các sự thật giản đơn là trước hết  con người cần phải ăn uống , ở và mặc, trước khi có thể lo đến chuyện chính trị khoa học, tôn giáo .
+ Con người phải sản xuất của cải vật chất, đó là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội . Xã hội không thể thoả mãn nhu cầu của mình bằng những cái đã có sẵn  trong tự nhiên, để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống của mình con  người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. “ Nếu  không có sản xuất thì xã hội sẽ diệt vong. Vì thế, sản xuất sản xuất của cải vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà hiện nay cũng như ngàn năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành từng ngày, từng giờ cốt để duy trì cuộc sống của con người.
+ Để sản xuất  ra của cải vật chất thì phải cần đến lực lượng sản xuất vì sản xuất vật chất không những là cơ sở cho sự sinh tồn của xã hội , mà còn là  cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác. Dù bất cứ một hệ thống vật chất nào cũng đều có  những  kiểu quan hệ  nhất định giữa các yếu tố cấu thành nó. Trong đời sống  xã hội , tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, chính trị,pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật ... đều hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất. Trong quá trình sản xuất nhất định con người đồng thời sản xuất và  tái sản xuất  ra những quan hệ xã hội của mình.
+ Muốn sản xuất ra của caỉ vật chất  thì nó cũng có những nhân tố tất yếu của sản xuất và đời sống : Xã hội là một hệ thống tự điều khiển bằng  những quy luật đặc thù  của mình, song điều đó không có nghĩa là xã hội phát triển một cách biệt lập với tự nhiên. Bởi vì tự nhiên là môi trường  sống của con người hợp thành xã hội và xã hội trong đó có con người là sản phẩm phát triển tự nhiên. Giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất. Sự trao đổi đó như Mác đã chỉ rõ - được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất. Điều kiện tự nhiên là yếu tố thường xuyên tất yếu của sự tồn tại và phát triển của xã hội nhưng không giữ vai trò quyết định sự phát triển của xã hội.
+ Vai trò của điều kiện tự nhiên trước hết được thể hiện ở chỗ: Từ trong thế giới thực vật và động vật con  người khai thác những tư liệu dinh dưỡng để chế biến ra tư liệu tiêu dùng; tài nguyên khoáng sản tự nhiên, con người chế tạo ra tư  liệu sản xuất; từ nguồn năng lượng tự nhiên con người sử dụng vào quá trình sản xuất như: sức gió, sức nước, sức hơi nước, điện, năng lượng của quá trình hoá học và các quá trình bên trong nguyên tử... Ở trình độ khác nhau của xã hội mức độ ảnh hưởng của tự nhiên đối với xã hội  cũng khác nhau.
- Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc tổ chức phân công lao động và phân bố lực lượng sản xuất, nhiều ngành nghề được hình thành từ những điều kiện tự nhiên như công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, các ngành khai thác... tự nhiên phong phú là dạng cơ sở tự nhiên của việc phân công lao động trong xã hội: tự nhiên tác động vào xã hội  hoàn toàn mang tính chất tự phát, còn xã hội tác động vào tự nhiên là sự tác động có ý thức của con người.
+ Sự tác động của con người vào tự nhiên như thế nào là tuỳ thuộc và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vào chế độ xã hội. Lực lượng sản xuất quyết định cách thức và trình độ chinh phục của con người.
+ Qúa trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao giờ  cũng bắt đầu từ dân số, muốn có lực lượng sản xuất thì tất nhiên phải có dân số, dân số đông thì lực lượng sản xuất lớn mạnh. Nhưng dân số  làm sao phải phù  hợp với đất nước, không quá đông, quá  ít  mà phải vừa đủ thì việc làm mới đáp ứng đủ với lực lượng sản xuất ... còn nếu thiếu việc làm thì lực lượng sản xuất sẽ thừa. Vậy muốn lực lượng sản xuất  đủ phù hợp với đất nước thì phải  kìm hãm dân số phát triển với những nước đông dân và khuyến khích sinh đẻ dân số với những nước có dân số ít. Vì lực lượng sản xuất là nhân tố chính của hình thái kinh tế xã hội .
+ Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng lực thực tiễn của con  người, song không phải  con người làm ra  theo ý muốn chủ quan. Bản thân  năng lực thực tiễn của con người  cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan nhất định. Người  ta làm ra lực lượng sản xuất  của mình dựa trên  những lực lượng sản xuất đã đạt được trong  mọi  hình thái kinh tế- xã hội đã có sẵn do thế hệ trước tạo ra. Lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, lực lượng sản xuất bao gồm:
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra,  trước hết là công cụ lao động .
- Người lao động với kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
+ Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất , được con người  sử dụng  mới là đối tượng lao động trực tiếp. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển  của sản xuất  có liên quan với việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất.
+ Tư liệu lao động là vật thể hay là phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền tích cực sự tác động  của con người vào đối tượng lao động.
+ Trình độ phát triển của tư liệu lao động chủ yếu là công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người,  là cơ sở xác định trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để khác nhau giữa thời đại kinh tế.  Đối với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại  trở thành  điểm xuất phát của sự phát triển tương lai.
Vì vậy những tư liệu đó là kế tục  của lịch sử chính những tính chất và trình độ kỹ thuật của lực lượng sản xuất đã quy định một cách  khách quan tính chất và trình độ quan hệ sản xuất, do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế- xã hội như một quá trình lịch sử - tự nhiên .
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)