Phật giáo và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam
Đăng ngày 07-05-2012 Lúc 08:46'- 2081 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1 Nguồn gốc ra đời
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà ( hay buddha ). Đạo phật chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá của minh, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con trai của Trịnh Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên. Cuộc đời của Phật Thích Ca được kể lại ở trong truyền thuyết như sau:
“ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của người Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đoá hoa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái được vời tới để giải mơ của Hoàng hậu. Các nhà thông thái cho rằng giấc mơ là điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luôn hồi một kiếp nào nữa!”.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đất nước ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương giả không cán dỗ được Hoàng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu như thế. ít lâu sau Hoàng tử lại được chứng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người khỏi những trầm luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử chính sự việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.
Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhưng Hoàng tử không thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến lòng dạ của Hoàng tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời, khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối đánh thức người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Khi đã rời khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt bộ tóc dài của mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao lại cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà tu hành.
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền định và những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân của Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng tử gần như chỉ còn bộ xương khô mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn bỏ  cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ. Và Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi cách làm chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục và chiếm nàng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng Hoàng tử vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên định của Hoàng tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hoàng tử ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào thành trì kiên định của Hoàng tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh đẹp của mình là các nàng Khát vọng, khoái lạc và Dục vọng tới múa nhảy mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đã tìm ra được cách để  chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới không vì có huyền diệu quá khó hiểu quá đối với mọi người. Chính thượng đế Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho thế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật và được gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ). Giáo pháp mới của Đạ phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn đồ đầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60 người, theo thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng gia đã ra đời.
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)