Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Đăng ngày 07-05-2012 Lúc 08:26'- 2098 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
B- NỘI DUNG
 I- Cơ sở triết học của đề tài
 1- Phương thức sản xuất
          Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức nhất định của sự sản xuất xã hội, trong đời sống xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết cấu và những đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
          Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội... được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế xã hội nào. C. Mác viết: “ Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”
(1).
          Phương thức sản xuất, cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
 
 
 
 
 
 
 
 2- Lực lượng sản xuất
          Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng sản xuấtquan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C. Mác gọi là “ quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của người với tự nhiên và quan hệ của con người với nhau.
          Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với  kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong đó, “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”( 2).
          Do đặc trưng sinh học- xã gội riêng có của mình, cong người, trong nền sản xuất có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ- bắp. Trong lao động sức mạnh và kỹ năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ con người không phải là cái gì siêu tự nhiên,mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành một nguồn kực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
          Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
          Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm....
          Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn có, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan đến việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn  vào quá trình sản xuất. Điều đó hoàn toàn có tính quy luật bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người. Đối tượng lao động chính là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:
          + Loại có sẵn trong tự nhiên. Loại này thường là đối tượng của các ngành công nghiệp khai thác.
          + Loại đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động gọi là nguyên liệu. Loại này thường là đói tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
          Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai trò của nhiều đối tượng lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động có chất lượng mới được tạo ra. Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn là đất đai, tự nhiên: “ lao động là cha, còn đất là mẹ của mọi của cải vật chất”( 3).
          Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình.
          Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất( nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, ống dẫn, băng chuyền, đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc...).
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)