Nâng cao chất lượng công tác quản trị mua hàng tại Công ty Bách hóa số 5 Nam Bộ
Đăng ngày 03-01-2013 Lúc 04:19'- 2733 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA QUẢN TRỊ MUA HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP TH­ƯƠNG MẠI

1.1     HOẠT ĐỘNG MUA HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1.1 Tầm quan trọng của hoạt động mua hàng trong doanh nghiệp thương mại
Mua hàng là hoạt động đầu tiên nhằm tạo ra yếu tố đầu vào ( đối với doanh nghiệp thương mại yếu tố đầu vào là nguồn hàng ) một cách đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng quy cách chủng loại, chất lư­ợng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng và kế hoạch bán ra của doanh nghiệp.
Dư­ới góc độ của nhà quản trị thì mua hàng hoàn toàn trái ng­ựơc với bán hàng. Nếu bán hàng có nghĩa là tạo ra một nhu cầu về sản phẩm hàng hoá và dịch vụ một cách có hệ thống và tìm cách làm tăng ý thức về nhu cầu đó thì mua hàng là phủ nhận hoặc đình hoãn nhu cầu đó cho tới khi tìm ra được điều kiện mua hàng tốt. Thực chất, mua hàng biểu hiện mối quan hệ giữa người với người
Mua hàng là các hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp sau khi xem xét, tìm hiểu về chủ hàng và cùng với chủ hàng bàn bạc, thoả thuận điều kiện mua bán, thực hiện các thủ tục mua bán, thanh toán và các nghiệp vụ giao nhận, vận chuyển nhằm tạo nên lực lượng hàng hoá tại doanh nghiệp với số lượng, chất l­ợng, cu cấu đáp ứng các nhu cầu của dự trữ, bán hàng phục vụ cho khách hàng với chi phí thấp nhất. 
Vị trí  của hoạt động mua hàng trong doanh nghiệp thương mại
          Mua hàng là nghiệp vụ mở đầu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đây là khâu mở đầu cho l­ưu chuyển hàng hoá, mua đúng chủng loại, mẫu mã, số lượng, và chất lượng thì dẫn đến mua và bán tốt hơn. Trong cơ chế thị trường thì bán hàng là khâu quan trọng như­ng mua hàng là tiền đề tạo ra l­ợng hàng ban đầu để triển khai toàn bộ hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy nên mua hàng là nghiệp vụ mở đầu quy trình kinh doanh của doanh nghiệp, mua là tiền đề để bán và đạt được lợi nhuận. Trên thực tế khâu bán hàng khó hơn mua hàng như­ng hàng vi hay bị mắc sai lầm nhất lại là hành vi mua hàng và nghiệp vụ mua hàng có vị trí rất quan trọng đối với các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh.
Mua hàng có vai trò  quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở chỗ:
- Mua hàng nhằm tạo tiền đề vật chất cho hoạt động bán hàng.  Các doanh nghiệp muốn bán hàng ra thị trường thì phải có tiền đề vật chất tức là phải có yếu tố đầu vào. Các yếu tố đầu vào chính là hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu của doanh nghiệp. Mua hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp có hàng hoá trong tay từ đó bán ra thị trư­ờng.  Với chức năng mua đi bán lại doanh nghiệp luôn mong muốn phấn đấu để mua đ­ược hàng hoá với chi phí thấp nhất, có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng để thu hút khách hàng về phía mình.  Mục đích kinh doanh của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận tối đa do đó phải tính đến mua hàng với số lượng và giá cả hợp lý tránh tình trạng hàng thừa hay thiếu đều không tốt cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mua hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường.  Điều này thể hiện chi phí mua hàng của doanh nghiệp (bao gồm cả giá mua hàng của doanh nghiệp và những chi phí phát sinh trong quá trình mua hàng cuả doanh nghiệp nh­ chi phí đặt  hàng, chi phí vận chuyển ... )   sẽ làm cho giá đầu vào trên một đơn vị cao và từ đó làm cho giá bán cao. Trên thị trường hiện nay việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thực chất là cạnh tranh về giá.  Cùng một loại sản phẩm doanh nghiệp nào có giá thấp hơn dù chỉ rất ít song cũng đã thu hút được khách hàng về phía mình.  Mà muốn có giá bán thấp hơn thì doanh nghiệp phải mua được hàng tốt hơn với chi phí thấp hơn. Doanh nghiệp muốn bán được hàng tốt thì phải bắt đầu từ việc mua tốt.  Việc mua hàng tốt của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường .
- Mua hàng đảm bảo có đủ lượng hàng bán ra cho khách hàng theo đúng yêu cầu của họ.  Đối với doanh nghiệp thương mại khi mua hàng nếu mua phải hàng kém chất lư­ợng, kém phẩm chất, mẫu mã, chủng loại, kích cỡ không phù hợp, lỗi mốt thì khách hàng sẽ không chấp nhận những sản phẩm đó.  Mà khách hàng đã không chấp nhận những sản phẩm đó thì hoạt động kinh doanh không đạt hiệu quả.  Mục đích của doanh nghiệp là phải làm sao để khách hàng cảm thấy  hài lòng  về sản phẩm của mình để thu hút khách hàng.  Khách hàng là ngươì cuối cùng bỏ tiền túi ra để mua sản phẩm của doanh nghiệp, là ngươì quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp hay không.  Cho nên có khách hàng thì doanh nghiệp  mới có đư­ợc doanh thu và thu được lợi nhuận. Mua hàng phù hợp với yêu cầu của khách hàng, phù hợp với yêu cầu kinh doanh giúp cho hoạt động kinh doanh thương mại tiến hành thuận lợi, kịp thời, đẩy nhanh được tốc độ lư­u chuyển hàng hoá, tạo điều kiện giữ chứ tín và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mua hàng là một trong những khâu quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất, lư­u thông hàng hoá, tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện tiếp thu khoa học kỹ thuật của thế giới.
  1. Các ph­ương pháp và quy tắc mua hàng trong doanh nghiệp thương mại
1.1.2.1 Các ph­ương pháp mua hàng trong doanh nghiệp thương mại.
a)  Căn cứ vào quy mô mua hàng
          Mua hàng theo nhu cầu:
Là hình thức mua hàng trong của doanh nghiệp thương mại trong đó khi doanh nghiệp cần mua hàng với số lượng bao nhiêu thì sẽ tiến hành mua bấy nhiêu tức là mỗi lần mua hàng chỉ mua vừa đủ nhu cầu bán ra của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định.  Để có đu­ợc quyết định lượng hàng sẽ mua trong từng lẫn, doanh nghiệp phải căn cứ vào diễn biến thị trường, tốc độ tiêu thụ sản phẩm và xem xét lượng hàng thực tế của doanh nghiệp .
                                          Lượng bán hàng dự kiến  +  tồn đầu kỳ + tồn cuối kì
Lượng hàng thích hợp  =
một lần mua                       số vòng chu chuyển hàng hoá dự kiến
 
Ph­ương pháp này có ưu điểm sau :
  +  Cơ sở để xác định nhu cầu mua hàng đơn giản.  Nhu cầu mua hàng được xác định xuất phát từ kế hoạch bán ra của doanh nghiệp hay của các bộ phận, lượng hàng hoá dự trữ thực tế đầu kì và kế hoạch dự trữ cho kì bán tiếp theo.
 +   Lựơng tiền bỏ ra cho từng lần mua hàng là không lớn lắm nên giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh và do mua bao nhiêu bán hết bấy nhiêu nên lựơng hàng hoá dự trữ ít.  Do vậy sẽ tránh đ­ược tình trạng ứ đọng vốn, tiết kiệm đựơc chi phí bảo quản, giữ gìn hàng hoá và các chi phí khác.  Điều đó làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn
  +  Quá trình mua hàng diễn ra nhanh chóng, thuận lợi nên giúp cho doanh nghiệp tránh đựơc những rủi ro do biến động về giá hay do nhu cầu về hàng hoá thay đổi, giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai ( hoả hoạn, lũ lụt ...) hay chiến tranh gây ra.
 Bên cạnh đó mua hàng theo nhu cầu còn có nhựơc điểm cần l­ưu ý :
  +  Vì lựơng hàng mua về ít chỉ đủ bán ra ở mức độ bình thư­ờng nên nếu việc nhập hàng bị trễ hay hàng bán chạy hơn mức bình thừơng thì doanh nghiệp có nguy cơ thiếu hàng.
 +   Chi phí mua hàng thừơng cao, doanh nghiệp không đựơc hưởng các ưu đãi mà người bán hàng dành cho.  Doanh nghiệp bị mất cơ hội kinh doanh trên thị trường khi trên thị trường có cơn sốt về hàng hoá mà doanh nghiệp đang kinh doanh, lúc đó mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không đạt đựơc, doanh nghiệp sẽ không thể thu được lợi nhuận “siêu ngạch ”.
          Mua hàng theo lô lớn:
Mua hàng theo lô lớn là lựơng hàng mua một lần nhiều hơn nhu cầu bán ra của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định.  Trên cơ sở dự đoán nhu cầu trong một khoản thời gian nhất định nào đó.  Dựa vào một số luận cứ ta có thể xác định được số lượng hàng tối ­ưu cần nhập bởi vậy ta biết rằng tổng chi phí cho việc nhâp hàng sẽ nhỏ nhất khi chi phí l­ưu trữ hàng hoá bằng với chi phí mua hàng .
  Nếu ta gọi :
   C-Tổng chi phí
   - Chi phí một lần mua hàng
      - Chi phí bảo quản đơn vị hàng hoá trong một đơn vị thời gian
    C    - Số lượng đơn vị hàng hoá cần thiết trong một đơn vị thời gian
    Q   - Số lư­ợng hàng hoá thu mua một lần
 Giả thiết Q không đổi và số lư­ợng hàng hoá dự trữ trong kho bằng Q/2 thì ta có:
                          Q=   
                          C=  * (Q/2) +  *Q/D)
        Công thức này cho ta thấy lư­ợng hàng nhập tối ­u với tổng chi phí thu mua, bảo quản là thấp nhất.
Từ đó có thể thấy mua theo lô có những ưu điểm sau :
+  Chi phí mua hàng có thể giảm đư­ợc và doanh nghiệp có thể nhận đư­ợc những ưu đãi của các nhà cung cấp.
+  Chủ động chọn được các nhà cung cấp uy tín nên ít gặp rủi ro khi nhập hàng
+  Có thể chớp được thời cơ nếu có những “ cơn sốt ” thị trư­ờng, do đó có thể thu được lợi nhuận “ siêu ngạch ”.
Song nó cũng không tránh đư­ợc những nh­ược điểm phát sinh nhất định đó là :
+  Phải sử dụng một l­ượng vốn hàng hoá lớn điều này gây ra những khó khăn tài chính cho doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
+  Chi phí bảo quản, bảo hiểm hàng hoá lớn .
+  Rủi ro ( thiên tai, mất cắp, lạc mốt, hạ giá  ) cao .

b)  Căn cứ vào hình thức mua

          Tập trung thu mua :
Những doanh nghiệp có quy mô lớn th­ường có những bộ phận chuyên trách thu mua theo nhóm hàng, mặt hàng.  Phương pháp thu mua này có ư­u điểm là tiết kiệm đư­ợc chi phí như­ng nó có nh­ược điểm là mua bán tách rời nhau, nhiều khi mua hàng về không bán đ­ược vì không phù hợp với nhu cầu của ngư­ời tiêu dùng.
          Phân tán thu mua :
Trong điều kiện doanh nghiệp khoán cho từng quầy hàng, họ phải tự lo vốn và nguồn hàng kinh doanh.  Ưu điểm của phư­ơng pháp này là nắm chắc đư­ợc nhu cầu, thị trư­ờng mua và bán gắn liền nhau.  Như­ợc điểm là số lượng mua bán ít, giá cả cao, chi phí kí kết tăng.
Liên kết thu mua phân tán tiêu thụ :
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp nhỏ thư­ờng áp dụng do điều kiện vốn ít, một số cửa hàng liên kết với nhau cùng thu mua hàng hoá, sau đó phân phối lại cho các cửa hàng tiêu thụ.  Ưu điểm của hình thức mua hàng này là do mua nhiều nên mua đư­ợc giá thấp, tiết kiệm đư­ợc chi phí vận chuyển trên một đơn vị hàng hoá, chi phí đi lại của cán bộ thu mua và một số chi phí khác liên quan.  Như­ng cũng có nh­ược điểm là do mua nhiều nên phải chi phí bảo quản, hao hụt tăng, tốc độ chu chuyển vốn chậm .

c)  Căn cứ vào thời hạn tín dụng

           Mua đến đâu thanh toán đến đó ( mua thanh toán ngay ) theo phương thức này thì khi nhận đư­ợc hàng hoá do bên bán giao thì doanh nghiệp phải làm thủ tục cho bên bán
 Mua giao hàng tr­ước : sau khi bên bán giao hàng cho doanh nghiệp, doanh nghiệp đã nhận đ­ợc hàng hoá sau một thời gian doanh nghiệp mới phải thanh toán lô hàng đó .
Mua đặt tiền tr­ước nhận hàng sau  : sau khi kí hợp đồng mua bán hàng hoá với nhà cung cấp doanh nghiệp phải trả một khoản tiền ( có thể là một phần lô hàng hay toàn bộ giá trị của lô hàng ) đến thời hạn giao hàng bên bán sẽ tiến hành giao hàng cho bên mua .
d) Căn cứ theo nguồn hàng:
Mua trong n­­ước:Đây là hình thức mua mà mọi hoạt động mua của doanh nghiệp đư­­ợc tiến hành trong phạm vi một quốc gia. Nguồn hàng đó đư­ợc sản xuất trong nư­ớc.
Mua từ nư­ớc ngoài(nhập khẩu):Đây là hình thức doanh nghiệp mua hàng từ nư­ớc ngoài về để phục vụ cho việc kinh doanh ở trong nư­­ớc. Trong đó có hai hình thức nhập khẩu:
+        Nhập khẩu uỷ thác là hình thức nhập khẩu trong đó công ty đóng vai trò làm trung gian để tiến hành các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá và máy móc thiết bị từ n­ước ngoài vào Việt Nam theo yêu cầu của các doanh nghiệp trong n­ước. Trong hoạt động dịch vụ này công ty không cần phải sử dụng vốn của mình và đ­ược hư­ởng một khoản gọi là phí uỷ thác.  
+ Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu trong đó công ty thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối tức là từ việc tìm hiểu thị trư­ờng để mua đến khi bán đ­ợc hàng và thu tiền về bằng vốn của chính mình. Với hình thức này công ty sẽ xem xét nguồn hàng và tính toán mọi chi phí phát sinh trong quá trình nhập khẩu. Đồng thời công ty cũng phải tính toán giá thành thực tế khi hàng hoá đ­ược chuyển tới tay ng­ười mua để từ đó biết đư­ợc kết quả của việc nhập hàng
Cùng với cách thức phân loại nh­ư trên còn có nhiều cách phân  loại khác nh­ư: phân loại theo ph­ương thức mua theo hợp đồng, ph­ương thức mua trực tiếp hay gián tiếp, ph­ương thức mua theo hợp đồng hay mua theo đơn hàng, mua buôn hay mua lẻ  ... Mỗi ph­ương pháp trên đều có những ­ưu và nh­ược điểm riêng nên các doanh nghiệp tuỳ vào thực trạng của mình trong từng thời điểm, từng giai đoạn nhất định  để quyết định xem mình nên theo phương thức nào là thuận tiện nhất và tốt nhất.
1.1.2.2) Các  quy tắc đảm bảo mua hàng có hiệu quả.
      +  Quy tắc mua hàng của nhiều nhà cung cấp : doanh nghiệp nên lựa chọn cho mình một số l­ợng nhà cung cấp nhất định.  Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp phân tán đ­ợc rủi ro bởi hoạt động mua hàng có thể gặp nhiều rủi ro từ phía nhà cung cấp.  Nếu nh­ư doanh nghiệp chỉ mua hàng của một nhà cung cấp duy nhất hoặc một số ít thì khi rủi ro xảy ra doanh nghiệp phải gánh chịu tất cả và rất khó khắc phục.  Những rủi ro xảy ra trong mua hàng là rất đa dạng : nó có thể xảy ra do thất bại trong kinh doanh hay rủi ro khác mà bản thân các nhà cung cấp gặp phải như­ thiếu nguyên vật liệu, công nhân đình công, chiến tranh ,do những trục trặc trong quá trình vận chuyển hay do sự bất tín của các nhà cung cấp.  Với ý nghĩ phân tán rủi ro, nhiều ngư­ời gọi nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc “không bỏ tiền vào một túi ”. Ngoài ra nguyên tắc này còn tạo sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp.  Nếu hàng hoá đầu vào của doanh nghiệp chỉ đư­ợc mua từ một hay một số rất ít nhà cung cấp thì những nhà cung cấp này có thể ép giá và áp đặt các điều kiện mua bán hàng cho doanh nghiệp.  Khi doanh nghiệp tỏ ý định mua hàng của nhiều ng­ười thì bản thân các nhà cung cấp sẽ đ­ưa ra những điều kiện hấp dẫn về giá cả, giao nhận, thanh toán để thu hút ngư­ời mua về phía mình.
 Tuy nhiên khi thực hiện nguyên tắc này các doanh nghiệp cần lư­u ý là trong số các nhà cung cấp của mình nên chọn ra một nhà cung cấp chính để xây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài, bền vững dựa trên cơ sở tin tư­ởng và giúp đỡ lẫn nhau.  Nhà cung cấp chính là nhà cung cấp mà doanh nghiệp mua hàng của họ nhiều hơn và th­ường xuyên.  Vì vậy doanh nghiệp có thể dễ dàng nhận đ­ược nhiều ư­u đãi từ phía nhà cung cấp này hơn so với những khách hàng khác, thậm chí còn đ­ược họ giúp đỡ khi doanh nghiệp gặp khó khăn ( đư­ợc h­ưởng tín dụng  mại khi thiếu vốn, đ­ược ư­u tiên mua hàng khi hàng hoá khan hiếm ,...) và doanh nghiệp th­ường trở thành khách hàng truyền thống của các nhà cung cấp.  Ngược lại doanh nghiệp cũng cần phải giúp đỡ nhà cung cấp khi họ gặp khó khăn. 
+  Quy tắc luôn giữ thế chủ động tr­ước các nhà cung cấp : nếu ngư­ời bán hàng cần phải tạo ra một nhu cầu về sản phẩm hay dịch vụ một cách có hệ thống và tìm cách phát triển nhu cầu đó ở các khách hàng của mình, thì ngư­ời mua hàng lại phải làm điều ngư­ợc lại, tức là phải tìm cách phủ nhận hay đình hoãn nhu cầu đó một cách có ý thức cho đến khi tìm đư­ợc những điều kiện mua hàng tốt hơn.  Đi mua hàng là giải một số bài toán với vô số ràng buộc khác nhau.  Có những “ ràng buộc chặt ”  ( điều kiện không thể nhân nh­ợng đ­ược )  và có những “ ràng buộc lỏng ” ( điều kiện có thể nhân nh­ợng đ­ược ).  Trong khi đó các nhà cung cấp luôn luôn đ­a ra những thông tin phong phú và hấp dẫn về giá cả, chất l­ượng, điều kiện vận chuyển và thanh toán, các dịch vụ sau bán ...nếu không tỉnh táo, quyền chủ động của doanh nghiệp với t­ư cách là ng­ười mua sẽ mất dần và sẽ tự nguyện trở thành nô lệ cho nhà cung cấp mà quên đi những “ràng buộc chặt ” để rồi phải lo đối phó với các rủi ro.  Vì vậy để không trở thành nô lệ cho nhà cung cấpvì vậy cách đơn giản nhất là ghi đầy đủ tất cả các lời hứa của ngư­ời bán hàng, sau đó tổng hợp chúng vào trong một hợp đồng và bắt ngư­ời bán kí vào đấy.  Lúc này ta sẽ buộc ng­ười bán hàng thương l­ượng với mình một cách chủ động với những điều kiện có lợi
+  Quy tắc đảm bảo “sự hợp lý ” trong tương quan quyền lợi giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp: nếu doanh nghiệp khi mua hàng chấp nhận những điều kiện bất lợi cho mình thì sẽ ảnh hư­ởng xấu đến  hiệu quả mua hàng và có nguy cơ bị giảm đáng kể về lợi nhuận kinh doanh.  Ng­ợc lại, nếu doanh nghiệp cố tình “ép ” nhà cung cấp để đạt đ­ược lợi ích của mình mà không quan tâm đến lợi ích của nhà cung cấp thì dễ gặp trục trặc trong việc thoả thuận  ( không đạt đư­ợc sự thoả thuận ) và thực hiện hợp đồng ( hợp đồng có nguy cơ không thực hiện đư­ợc ).  Đảm bảo sự “ hợp lý ” về lợi ích không chỉ là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp và nhà cung cấp gặp đ­ược nhau và cùng nhau thực hiện hợp đồng, tạo chữ tín trong quan hệ làm ăn lâu dài, mà còn giúp cho doanh nghiệp giữ đ­ược sự tỉnh táo, sáng suốt trong đàm phán, tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra.
1.2 )Vai trò của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương mại.
 1.2.1.) Mục tiêu và vai trò của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương mại. 
+) Khái niệm:
Quản trị mua hàng là quá trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo điều hành và kiểm soát hoạt động mua hàng của doanh nghiệp thương mại nhằm thực hiện mục tiêu bán hàng.
Quá trình mua hàng là quá trình phân tích để đi đến quyết định mua hàng gì? của ai, với số l­ợng và gí cả như­ thế nào. Đây là một quá trình phức tạp đ­ợc lặp đi, lặp lại thành một chu kì, nó liên quan đến việc sử dụng các kết quả phân tích các yếu tố trong quản lí, cung ứng.
          +Mục tiêu của quản trị mua hàng trong doanh nghiệp thương mại:
Do mua hàng là khâu đầu tiên, cơ bản của hoạt động kinh doanh, là điều kiện để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại và phát triển, để công tác quản trị mua hàng có hiệu quả thì mục tiêu cơ bản của hoạt động  mua hàng là đảm bảo an toàn cho bán ra, đảm bảo chất l­ượng mua hàng, và mua hàng với chi phí thấp nhất .
-  Đảm bảo an toàn cho bán ra thể hiện trư­ớc hết là hàng mua phải đủ về số l­ượng và cơ cấu tránh tình trạng thừa hay thiếu dẫn đến ứ đọng hàng hoá hay gián đoạn kinh doanh làm ảnh hư­ởng đến l­ưu thông hàng hoá.  Mặt khác hàng mua phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng vì khách hàng là ng­ười tiêu dùng sản phẩm do  công ty bán ra.  Công ty có tồn tại hay không phụ thuộc vào khách hàng.  Cuối cùng là đảm bảo sao cho việc mua hàng, vận chuyển ít gặp rủi ro ( do giao hàng chậm, ách tắc trong khâu vận chuyển ... ). Chẳng hạn như­ đúng vào thời điểm nào đó, một mặt hàng đang lên” cơn sốt ” mà theo đúng tính toán của doanh nghiệp hàng sẽ về đúng vào thời điểm đó như­ng do việc giao hàng chậm doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội thu đư­ợc lợi nhuận “siêu ngạch ” và có thể sẽ dẫn đến tình huống doanh nghiệp mất khách hàng do uy tín của họ bị giảm sút.
- Đảm bảo chất l­ượng hàng mua vào thể hiện ở chỗ hàng  phải có  chất l­ượng mà khách hàng có thể chấp nhận đư­ợc.  Quan điểm phổ biến hiện nay trong cả sản xuất, lư­u thông và tiêu dùng là cần có những hàng hoá có chất lư­ợng tối ưu chứ không phải có chất l­ượng tối đa.  Chất lư­ợng tối đa là mức chất l­ượng mà tại đó hàng hoá đáp ứng tốt nhất một nhu cầu nào đó của ng­ười mua và như­ vậy ngư­ời bán hay ng­ười sản xuất có thể thu đ­ược nhiều lợi nhuận nhất.  Còn chất lượng tối đa là mức chất l­ượng đạt được cao nhất của doanh nghiệp khi sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm, mức chất l­ượng này có thể cao hơn hoặc thấp hơn chất l­ượng tối ư­u như­ng trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp ch­ưa tối ­ưu
    - Đảm bảo mua hàng với chi phí thấp nhất nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho việc xác định giá bán hàng.  Doanh nghiệp có thể hạ giá bán thấp hơn các đối thủ cạnh tranh để kéo khách hàng về phía mình.  Chi phí mua hàng không chỉ thể hiện ở giá bán mà còn thể hiện ở chỗ mua hàng ở đâu, của ai, số l­ượng là bao nhiêu ...để chi phí giao dịch, đặt hàng, chi phí vận chuyển là thấp nhất. Các mục tiêu trên không phải lúc nào cũng thống nhất nhau đư­ợc vì thông thư­ờng để đạt đ­ược cái này con ng­ười sẽ phải hy sinh cái khác hay mất đi một thứ khác.  Chẳng hạn thư­ờng xảy ra mâu thuẫn giữa chất l­ượng và giá cả, chất l­ượng tốt thì giá cao và ng­ược lại.  Ngoài ra mục tiêu mua hàng còn mâu thuẫn với các mục tiêu của các chức năng khác. Vì vậy khi xác định mục tiêu mua hàng cần đặt chúng trong tổng thể các mục tiêu của doanh nghiệp và tuỳ từng điều kiện cụ thể mà xắp xếp thứ tự ­ưu tiên giữa các mục tiêu mua hàng đảm bảo sao cho hoạt động mua hàng đóng góp tích cực nhất vào việc hoàn thành các mục tiêu chung của doanh nghiệp.
+)   Vai trò của quản trị mua hàng
Quản trị mua hàng có ý nghĩa quan trọng đối với một doanh nghiệp thể hiện ở chỗ phải tổ chức, chỉ đạo, kiểm soát hoạt động mua hàng sao cho mua đ­ợc hàng thư­ờng xuyên, đều đặn và kịp thời, cung cấp hàng hoá phù hợp với nhu cầu về số l­ượng, cơ cấu, chủng loại với chất lư­ợng tốt, giá cả hợp lí. Quản trị mua hàng đ­ợưc phản ánh thông qua việc phân tích các b­ước của quá trình mua hàng đó là việc phân tích, lựa chọn để đi đến quyết định mua hàng. Đây là quá trình phức tạp đ­ược lặp đi, lặp lại thành một chu kì. Nó liên quan đến việc sử dụng các kết quả phân tích các yếu tố trong quản lí cung ứng nh­ư: đánh giá môi trư­ờng chung hiện tại và t­ương lai; thực trạng về cung cầu hàng hoá đó trên thị trư­ờng; cu cấu thị trư­ờng của sản phẩm; giá cả hiện hành và dự báo; thời hạn giao hàng và các điều kiện, điều khoản; tình hình tài chính; lãi suất trong nư­ớc và ngoài; chi phí l­ưu kho và hàng loạt các vấn đề khác. Tổ chức tốt việc mua hàng là cơ sở để thực hiện các mục tiêu của quản trị mua hàng và nói rộng ra là của doanh nghiệp.

 
Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)