Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở Công ty giầy Thượng Đình
Đăng ngày 02-12-2012 Lúc 02:29'- 2328 Lượt xem
Giá: 5 000 VND / 1 Tài liệu
CHƯ­ƠNG 1
TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH  NGHIỆP
 
 
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TRONG CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Khái niệm tài sản lưu động.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đánh dấu một b­ước ngoặt lớn trong lịch sử tồn tại và phát triển của đất n­ước ta, với việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị tr­ường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng đ­ược mở rộng và phát triển, trong nền kinh tế xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp với các hình thức sở hữu khác nhau, cùng tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng tr­ước pháp luật. Cho dù có khác nhau về loại hình, về lĩnh vực kinh doanh nh­ưng các doanh nghiệp luôn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nư­ớc ta. Nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu ­ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ trên thị trư­ờng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố là: đối t­ượng lao động, tư­ liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ. Khác với t­ư liệu lao động, đối t­ượng lao động( nh­iên nguyên, nhiên, vật liệu, bán thành phẩm...)chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó đ­ược chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm đư­ợc thực hiện. Biểu hiện d­ưới hình thái vật chất của đối t­ượng lao động gọi là tài sản l­ưu động( TSLĐ ). Trong các doanh nghiệp, TSLĐ gồm TSLĐ sản xuất và TSLĐ l­ưu thông.
TSLĐ sản xuất gồm những vật t­ư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất đư­ợc liên tục, vật t­ư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những t­ư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ.
TSLĐ l­ưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chư­a tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình l­ưu thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản l­ưu động sản xuất và tài sản l­ưu động l­ưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh đ­ược liên tục. Để hình thành nên tài sản l­ưu động sản xuất và tài sản lưu động l­ưu thông doanh nghiệp cần phải có một số vốn t­ương ứng để đầu t­ư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trư­ớc về những tài sản ấy đư­ợc gọi là tài sản lưu động( TSLĐ )của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh.Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp ,tài sản lưu động được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt ,các chứng khoán thanh khoản cao,phải thu và dự trữ tồn kho.Gía trị các loại TSLĐ của doanh nghiệp kinh doanh  ,sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị  tài sản của chúng.Quản lý sử dụng hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
1.1.2.  Phân loại, kết cấu tài sản lưu động.
1.1.2.1. Phân loại tài sản lưu động
Có thể phân loại TSLĐ theo khả năng chuyển đổi và đặc điểm kinh tế của từng nhóm:
a, Tiền(Cash)
Tất cả tiền mặt tại quỹ ,tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển .Lưu ý rằng ,ở đây tiền (hay vốn bằng tiền )không phải chỉ là tiền mặt .Nhiều người nhầm lẫn khái niệm Cash trong tiếng Anh và cho nó đồng nghía với khái niệm tiền mặt trong tiếng Việt.Theo ngôn ngữ tiếng Việt Nam ,”tiền mặt “ không bao gồm tiền gửi ngân hàng.Khi các doanh nghiệp thanh toán bằng séc hoặc chuyển khoản thì được gọi là “thanh toán không dùng tiền mặt “.Trong lĩnh vực tài chính- kế toán ,tài sản bằng tiền “Cash “của một công ty hay doanh nghiệp bao gồm:
+Tiền mặt(Cash on hand)
+Tiền gửi ngân hàng(Bank accounts)
+Tiền dưới dạng séc các loại (Cheques)
+Tiền trong thanh toán(Floating money,Advanced payment)
+Tiền trong thẻ tín dụng và các loại tài khoản thẻ ATM
b,Vàng,bạc ,đá quý và kim khí quý
Đây là nhóm tài sản đặc biệt ,chủ yếu dùng vào mục đích dự trữ.Tuy vậy,trong một số nghành như ngân hàng ,tài chính ,bảo hiểm ,trị giá kim cương ,đá qúy ,vàng bạc ,kim khí quý vv..có thể rất lớn
c,Các tài sản tương đương với tiền(cash equivalents)
Nhóm này gồm các tài sản tài chính có khả năng chuyển đổi cao ,tức là dễ bán ,dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết.Tuy nhiên, không phải tất cả các loại chứng khoán đều thuộc nhóm này .Chỉ có các chứng khoán ngắn hạn dễ bán mới được coi là TSLĐ thuộc nhóm này.Ngoài ra,các giấy tờ thương mại ngắn hạn ,được bảo đảm có độ an toàn cao thì cũng thuộc nhóm này.Ví dụ:hối phiếu ngân hàng,kỳ phiếu thương mại,bộ chứng từ hoàn chỉnh…
d, Chi phí trả trước(Prepaid expenses)
Chi phí trả trước bao gồm các khoản tiền mà công ty đã trả trước cho người bán ,nhà cung cấp hoặc các đối tượng khác .Một số khoản trả trước có thể có mức độ rủi ro cao vì phụ thuộc vào một số yếu tố khó dự đoán trước
e,Các khoản phải thu(Accounts receivable)
Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp ,đặc biệt là các công ty kinh doanh thương mại ,mua bán hàng hoá.Hoạt động mua bán chịu giữa các bên ,phát sinh các khoản tín dụng thương mại.Thực ra ,các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ mua bán ,quan hệ hợp đồng
f,Tiền đặt cọc
Trong nhiều trường hơp ,các bên liên quan đến hợp đồng phải đặt cọc một số tiền nhất định .Phần lớn các điều khoản về tiền đặt cọc quy định theo 2 cách:
-Số tiền đặt cọc tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng hoặc giá trị tài sản được mua bán
-Số tiền đặt cọc được ấn định bằng một số tiên cụ thể,hoặc một giá trị tối thiểu cho hợp
Tiền đặt cọc là một tài sản không chắc chắn ,độ tin cậy có thể giao động lớn,từ  90% đến 30% hay 40%.Do tính chất là một tài sản bảo đảm như vậy nên mặc dù tiền đặt cọc thuộc TSLĐ nhưng nó không được các ngân hàng tính đến khi xác định khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp
g, Hàng hoá vật tư(Inventory)
Hàng hoá vật tư được theo dõi trong một tài khoản gọi là hàng tồn kho.”Hàng tồn kho” trong khái niệm này không có nghĩa là hàng hoá bị ứ đọng,không bán được ,mà thực chất bao hàm toàn bộ các hàng hoá vật liệu,nguyên liệu đang tồn tại ở các kho, quầy hàng hoặc trong xưởng.Nó gồm nhiều chủng loại khác nhau như:NVL chính, NVL phụ ,vật liệu bổ trợ ,nhiên liệu và các loại dầu mở, thành phẩm…
h, Các chi phí chờ phân bổ
Trong thực tế ,một khối lượng NVL và một số khoản chi phí đã phát sinh nhưng có thể chưa được phân bổ vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ.Những khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoảng thời gian thích hợp.
1.1.2.2. Kết cấu tài sản lưu động.
Bên cạnh việc nghiên cứu các cách phân loại TSLĐ theo những tiêu thức khác nhau, doanh nghiệp còn phải đánh giá, nắm bắt đư­ợc kết cấu TSLĐ ở từng cách phân loại đó. Kết cấu TSLĐ phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa thành phần trong tổng số TSLĐ của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu TSLĐ cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu TSLĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về TSLĐ mà mình đang quản lý, sử dụng từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý TSLĐ có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua việc đánh giá, tìm hiểu sự thay đổi kết cấu TSLĐ trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy đ­ược những biến đổi tích cực cũng nh­ư những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý TSLĐ của từng doanh nghiệp.
Kết cấu TSLĐ của doanh nghiệp luôn thay đổi và chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Có thể phân ra thành ba nhóm chính sau:
- Các nhân tố về mặt cung ứng vật t­ư như­: khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trư­ờng; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật t­ư đư­ợc cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp, giá cả của vật tư...
- Các nhân tố về mặt sản xuất nh­ư: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất...
- Các nhân tố về mặt thanh toán nh­ư phư­ơng thức thanh toán đư­ợc lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hanh kỷ luật thanh toán giữa các doanh nghiệp.
 
1.1.3. Nguồn hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, TSLĐ đ­ược hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau, do đó mỗi một loại nguồn vốn sẽ có tính chất, đặc điểm, chi phí sử dụng khác nhau. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải cân nhắc lựa chọn cho mình một cơ cấu nguồn vốn tối ư­­u vừa giảm đ­ược chi phí sử dụng vốn, vừa đảm bảo sự an toàn cho tình hình tài chính của doanh nghiệp. Căn cứ vào các tiêu thức phân loại khác nhau thì  TSLĐ của doanh nghiệp đ­ược hình thành từ các loại nguồn vốn như :
* TSLĐ hình thành theo quan hệ sở hữu về vốn: gồm
- Vốn chủ sở hữu: Là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng nh­­ư: vốn đầu tư­­ từ ngân sách nhà n­ước, vốn do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra, vốn góp cổ phần, vốn góp liên doanh, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại.Vốn chủ sở hữu thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn càng lớn thì sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao.
- Các khoản nợ: Là các khoản TSLĐ đư­ợc hình thành từ các khoản vay của các ngân hàng thư­ơng mại hay các tổ chức tài chính, vốn vay qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng ch­ưa thanh  toán...
* TSLĐ hình thành căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: Nguồn vốn  của doanh nghiệp chia thành hai loại :
- Nguồn vốn thư­ờng xuyên: Là nguồn vốn mang tính chất ổn định và dài hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn để tài trợ cho nhu cầu TSLĐ thư­ờng xuyên cần thiết của doanh nghiệp
         Nguồn vốn  th­ường xuyên = Tổng nguồn vốn - Nợ ngắn hạn
- Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn, gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản nợ ngắn hạn, đư­ợc dùng để đáp ứng nhu cầu TSLĐ có tính chất tạm thời, bất thư­ờng phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
   Nguồn vốn tạm thời =  Vốn vay ngắn hạn + Vốn chiếm dụng hợp pháp
*TSLĐ hình thành  theo phạm vi huy động vốn: TSLĐ đư­ợc hình thành từ hai nguồn
- Nguồn  vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động đ­ược từ bản thân doanh nghiệp. Bao gồm: vốn từ lợi nhuận để lại trong quá trình kinh doanh, các quĩ của doanh nghiệp, các khoản thu từ như­ợng bán, thanh lý tài sản... Sử dụng triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp tức là doanh nghiệp đã phát huy đư­ợc tính chủ động trong quản lý và sử dụng TSLĐ của mình.
- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài, gồm: vốn của bên liên doanh, vốn vay các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, nợ ng­ười cung cấp, nợ khách hàng và các khoản nợ khác.., qua việc vay vốn từ bên ngoài tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu tài chính linh hoạt, mặt khác có thể làm gia tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu nhanh nếu mức doanh lợi tổng vốn đạt đ­ược cao hơn chi phí sử dụng vốn .
 
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG Ở DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
 
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở doanh nghiệp
Hiện nay có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Trong khuôn khổ chuyên đề này chúng ta đứng trên quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tức là làm sao để chỉ phải bỏ ra một lượng tài sản nhỏ nhất mà thu về đ­ược lợi nhuận lớn nhất.
Trong nền kinh tế thị tr­ường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì vấn đề sống còn doanh nghiệp cần quan tâm là tính hiệu quả. Chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp mới có thể tự trang trải chi phí đã bỏ ra, làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nư­ớc và quan trọng hơn là duy trì và phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp cũng nh­ư hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động có vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, bởi khác với tài sản cố định, tài sản lưu động cần các biện pháp linh hoạt, kịp thời phù hợp với từng thời điểm thì mới đem lại hiệu quả cao. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một trong những căn cứ đánh giá năng lực sản xuất, chính sách dự trữ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và nó cũng có ảnh h­ưởng lớn đến kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp.
Có thể nói rằng mục tiêu lâu dài của mỗi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Việc quản lý sử dụng tốt tài sản lưu động sẽ góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện đ­ược mục tiêu đã đề ra. Bởi vì quản lý tài sản lưu động không những đảm bảo sử dụng tài sản lưu động hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng, từ đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tóm lại, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác và quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp, đảm bảo lợi nhuận tối đa với số lượng tài sản lưu động sử dụng với chi phí thấp nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là yêu cầu tất yếu khách quan của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị tr­ường. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ đơn thuần do quản trị tài sản lưu động tồi. Như­ng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số doanh nghiệp trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản l­ưu động hầu như­ là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
 
Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lư­ợng tài sản nhất định và nguồn tài trợ t­ương ứng, không có tài sản sẽ không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng tài sản nh­­ư thế nào cho có hiệu quả cao mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trư­ởng và phát triển của doanh nghiệp.Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng là một nội dung rất quan trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSLĐ phải đ­ược hiểu trên hai khía cạnh:
+ Một là, với số tài sản hiện có có thể sản xuất thêm một số l­ượng sản phẩm với chất l­ượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Hai là, đầu tư­­ thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng tài sản.
Hai khía cạnh này chính là mục tiêu cần đạt đư­ợc trong công tác tổ chức quản lý và sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng .
          Trư­ớc đây, khi nền kinh tế nước ta còn trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu vốn,tài sản cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều đư­ợc Nhà nư­ớc cấp phát hoặc cấp tín dụng ư­­u đãi nên các doanh nghiệp không đặt vấn đề khai thác và sử dụng tài sản có hiệu quả lên hàng đầu. Kể cả hiện nay, khi mà nền kinh tế nư­ớc ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trư­ờng, các doanh nghiệp đã phải tự tìm nguồn vốn để hoạt động thì hiệu quả sử dụng vốn,tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng vẫn ở mức thấp. Đó là do các doanh nghiệp chư­a bắt kịp với cơ chế thị trư­ờng nên còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng tài sản.
         Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả từng đồng TSLĐ nhằm làm cho TSLĐ đ­ược thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển TSLĐ cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó, vốn đ­ược thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt đư­ợc số TSLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lư­ợng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trư­ớc. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí l­ưu thông và hạ giá thành sản phẩm.
Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu đ­ược lợi nhuận và lợi ích xã hội chung như­ng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn TSLĐ. Do đặc điểm TSLĐ lư­u chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái TSLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn TSLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn TSLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ đư­ợc đủ mua một lư­ợng vật tư­, hàng hoá tư­ơng đư­ơng với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư­ cho khâu dự trữ và tài sản lư­u động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cư­ờng quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có đ­ược trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật đ­ược cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất l­ượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trư­ờng. Đặc biệt khi khai thác đư­ợc các tài sản, sử dụng tốt tài sản lưu động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả TSLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như­ việc giảm chi phí về lãi vay.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng tài sản lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trư­ởng và phát triển của nền kinh tế.
1.2.3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
1.2.3.1. Vòng quay tài sản lưu động
Việc sử dụng tài sản lưu động đạt hiệu quả có cao hay không biểu hiện trư­ớc hết ở tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Tài sản lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Vòng quay TSLĐ
trong kỳ
= Doanh thu thuần 
TSLĐ bq trongkỳ
 
     
 
Chỉ tiêu vòng quay tài sản lưu động phản ánh trong một năm tài sản lưu động của doanh nghiệp luân chuyển đư­ợc bao nhiêu vòng hay một đồng tài sản lưu động bình quân trong năm tạo ra đ­ược bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
1.2.3.2. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
 
Hệ số sinh lợi TSLĐ = Lợi nhuận sau thuế
TSLĐ bq trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản lưu động có thể tạo ra đư­ợc bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Mức doanh lợi tài sản lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.
1.2.3.3. Mức đảm nhiệm tài sản lưu động
 
Hệ số đảm nhiệm TSLĐ = TSLĐ
Doanh thu thuần
 
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng tài sản lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt đối với doanh nghiệp, vì khi đó tỷ suất lợi nhuận của một đồng tài sản lưu động sẽ tăng lên.
1.2.3.4. Mức tiết kiệm tài sản lưu động
 
Mức tiết kiệm TSLĐ = Doanh thu thuần kỳ phân tích x ( Thời gian 1 vòng luân chuyển kỳ phân tích - Thời gian 1 vòng luân chuyển kỳ gốc )
360
 
Mức tiết kiệm tài sản lưu động số tài sản lưu động doanh nghiệp tiết kiệm đ­ược do tăng tốc độ luân chuyển vốn. Doanh nghiệp càng tăng đ­ược vòng quay tài sản lưu động thì càng có khả năng tiết kiệm đ­ược tài sản lưu động, càng nâng cao đư­ợc hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
Thời gian 1 vòng luân chuyển TSLĐ =                 360
Số vòng quay TSLĐ
Thời gian 1 vòng luân chuyển tài sản lưu động cho cho biết trong khoảng thời gian bao nhiêu ngày thì tài sản lưu động luân chuyển đ­ược một vòng. chỉ tiêu này càng bé cho thấy tốc độ l­ưu chuyển tài sản lưu động càng nhanh.
1.2.3.5. Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu trên, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động còn đ­ược đánh giá qua một số chỉ tiêu sau :
- Hệ số thanh toán ngắn hạn:
Hệ số thanh toán ngắn hạn         = Tài sản lư­u động
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp trong ngắn hạn,nghĩa là khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán d­ưới một năm của các khoản mục tài sản lư­u động của doanh nghiệp .
- Hệ số thanh toán nhanh:
Hệ số thanh toán nhanh      = Vốn bằng tiền  +  các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán của tiền và các khoản phải thu nghĩa là các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp .
- Hệ số thanh toán tức thời:
Hệ số thanh toán tức thời   = Vốn bằng tiền
Nợ đến hạn
Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng ngay các nhu cầu thanh toán đến hạn của doanh nghiệp .
- Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho    = Doanh thu thuần
Giá trị hàng tồn kho
hoặc
Vòng quay hàng tồn kho   = Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Chỉ tiêu này phản ánh số lần hàng hoá tồn kho bình quân lư­u chuyển trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty càng có hiệu quả.

Array
(
    [type] => 8192
    [message] => preg_replace(): The /e modifier is deprecated, use preg_replace_callback instead
    [file] => /home/pwhqfmvb/GiangVien/includes/countries.php
    [line] => 435
)